%PDF-1.7 %âãÏÓ 1188 0 obj <> endobj xref 1188 151 0000000016 00000 n 0000007932 00000 n 0000008067 00000 n 0000009851 00000 n 0000009995 00000 n 0000010298 00000 n 0000011013 00000 n 0000011444 00000 n 0000011664 00000 n 0000011703 00000 n 0000011818 00000 n 0000012083 00000 n 0000012431 00000 n 0000012544 00000 n 0000015416 00000 n 0000018057 00000 n 0000020616 00000 n 0000023111 00000 n 0000024963 00000 n 0000026981 00000 n 0000027121 00000 n 0000027526 00000 n 0000029600 00000 n 0000031788 00000 n 0000034439 00000 n 0000034515 00000 n 0000034614 00000 n 0000034765 00000 n 0000046700 00000 n 0000048076 00000 n 0000054300 00000 n 0000054425 00000 n 0000054542 00000 n 0000054656 00000 n 0000054771 00000 n 0000054888 00000 n 0000054920 00000 n 0000054997 00000 n 0000055378 00000 n 0000055447 00000 n 0000055565 00000 n 0000055597 00000 n 0000055674 00000 n 0000056054 00000 n 0000056123 00000 n 0000056241 00000 n 0000056273 00000 n 0000056350 00000 n 0000056729 00000 n 0000056798 00000 n 0000056916 00000 n 0000056948 00000 n 0000057025 00000 n 0000057405 00000 n 0000057474 00000 n 0000057592 00000 n 0000057624 00000 n 0000057701 00000 n 0000058080 00000 n 0000058149 00000 n 0000058267 00000 n 0000058299 00000 n 0000058376 00000 n 0000058752 00000 n 0000058821 00000 n 0000058939 00000 n 0000058971 00000 n 0000059048 00000 n 0000059428 00000 n 0000059497 00000 n 0000059615 00000 n 0000059686 00000 n 0000059785 00000 n 0000065409 00000 n 0000065699 00000 n 0000065944 00000 n 0000065973 00000 n 0000066330 00000 n 0000066401 00000 n 0000066504 00000 n 0000071049 00000 n 0000071335 00000 n 0000071639 00000 n 0000071668 00000 n 0000072073 00000 n 0000072163 00000 n 0000073181 00000 n 0000073490 00000 n 0000073830 00000 n 0000074013 00000 n 0000077339 00000 n 0000077840 00000 n 0000078334 00000 n 0000078477 00000 n 0000081257 00000 n 0000081656 00000 n 0000082093 00000 n 0000088698 00000 n 0000088973 00000 n 0000089354 00000 n 0000091913 00000 n 0000091954 00000 n 0000092031 00000 n 0000092342 00000 n 0000092605 00000 n 0000092973 00000 n 0000093295 00000 n 0000093372 00000 n 0000093449 00000 n 0000093754 00000 n 0000093811 00000 n 0000093929 00000 n 0000094006 00000 n 0000094313 00000 n 0000094598 00000 n 0000095061 00000 n 0000095138 00000 n 0000095548 00000 n 0000095625 00000 n 0000095941 00000 n 0000096018 00000 n 0000097952 00000 n 0000098339 00000 n 0000098416 00000 n 0000100286 00000 n 0000100649 00000 n 0000100726 00000 n 0000101149 00000 n 0000101226 00000 n 0000101258 00000 n 0000101335 00000 n 0000101713 00000 n 0000101782 00000 n 0000101900 00000 n 0000101977 00000 n 0000102321 00000 n 0000102720 00000 n 0000102797 00000 n 0000103234 00000 n 0000103311 00000 n 0000103816 00000 n 0000103893 00000 n 0000104282 00000 n 0000104381 00000 n 0000104530 00000 n 0000105031 00000 n 0000105108 00000 n 0000107149 00000 n 0000134002 00000 n 0000134382 00000 n 0000003316 00000 n trailer <<7A06C91341151A4E8CF2A190566425E4>]/Prev 3635205>> startxref 0 %%EOF 1338 0 obj <>stream hÞÔYyXS׶ßç$$d !ETDbDƒH±7Dl‘I$ „É*"Q¬½M¨õZK}`eƒF…‚­õKP®B­¢‚R®mÁ¡¨^‡ê³õ}¯oí‘ÐöÞÿÞ9ßIÎÉÙ{í5üÖo­ !B&ï"c„¬�<ÄD,DGÆŸxÓt:—iENá›ñŒI#c6‘$É! b ¬è<Ä#�yL:�Î3c“L–1Á#ŒÍè¶$iL'LH.‹Ç`ÑùYÇÎ5Ç·d}6Íkoçß®ŠvNYXËâóŽd+-•í‡T3¶¾ö¦Ùÿrí×˜í°„Væ÷7‘®Sû‹mzÖzٻЃ¾P53øþ}Éûê¿,?ózDî{’%vIÖ‡Æ]Ê;§Ï¸Ï‰Ë;õ(îæûÏídþx|y©rÝÌ\¤Kº·Ò–ëÿèì>ú†sö~s0ºYÌbVä%¹½ôÐ(W™ Ì–;‚ÙÂ+wŒEVµqNî]R I½~ñαèÚÀSw×.©-kØuJº÷¯Ó=v·çv?ˆhˆýäÄÓºð€´Oßfójf£É.3’$ìå¼�Ò*cë®×Æ_]/kŽª* âûä5Üj©ƒìs•W˲>Û_«pµ‰`œÝÑ–^7ÅYÙ—×·FVEWEÖ'?¾ÈmŠ9ªHkzÃAb§˜#U†e¹–³�Z-‘ú–.3*ýIÜ’°£„[ÐÃùÇZ–×ÉnQsž%d2h�:NFàשedAq`ʆå+öG £;¬jË„Ö\§mòø4oMDÕ ÖÓÃ3‚�wÿ´©ÓEt0­1ÚäY_Ö¡¦7`3¾È©aÐr£Óî¶ð3OFçÚ±´WÕÁ'u×ùoÈëK¸u´„¶ÜFÁ¾uä6u¹.ã¿¢–ª;­ÙÂoVb9·s|°bSK¡K4Bgâu8ƒ7U㿫NiŽ=¡®vl½Öãß/*aS›ôn?NðÝ›v¼w.’®?}y]stH>Ê:7°aáM—¢¡Š3U ô©áEb¯~~7¥IZ³˜­íU­M…|u×™åô éÚ¼_¯ˆ�L™eÑ¡ì´1-#�Ê“[ìy'£ë#¾Z6º¨Ï>#¦t­Rë6b›A;~MU¾/Ý8¶þzyÑÕöÄcÒšðmOr|ChÕbeù`œø@¬‘¤?ï×N!µDAÆLS#:£8Äëðúà&˜õàí9êÄc!BåE¯èƒµ\«ÞÈØÍ¡¥‰o颦òëÒ#�ìÀ&[ƒÉ‚‚Ã&(m@ w™sü»*“Y`é H®åû€ç¹¹zÏ[q ,Û(H8‡ë4·t½�4âì®æÌXdýžÐó‡ÛVü’]P2XÙñupYt�¬?ìº^�ie« Ã;\«—$º}³¦h°Ñò黋¾ŸÒ|µ�ˤ“âc?Z<úá7åö¬ÊÝm+ÊLE—{¦‚ÃcÔ]®7®ÝÇÞ�”{#·?ïEwöÆåøÛß>¬çVn[+v›îÏ"s§xÌ`—…KH”YÆÉÂiì/ÿÝ(5Kt߈>HïíÿÉšë|}G¾}”Û¡wÏt¬||Ô "çxÖRø)MkÚѾb?„[ í‘o·â|`ÅîLrc9�9­[}j™{XwËWs™¡D¤ RtÓŒÕ {˜oŒ1©G%QÈQR·ñÄ{«k¬¾ú™¾ Qm¹òªºª+ÔE5§xÿšÔŠ†nAÑŦÎAû.õ³0 Öc“ýFÇg¿u5Á× c•ñ

NĂM ÁP LỰC LÊN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NĂM 2024

Các số liệu thống kê về thị trường lao động năm 2023 nêu trên và so sánh với số liệu các năm trước đều cho thấy lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có xu hướng tăng hàng năm. Theo số liệu năm 2010, khi dân số khoảng 87,5 triệu dân thì lực lượng lao động trong độ tuổi từ 15 trở lên khoảng hơn 50,5 triệu người; còn năm 2023 dân số khoảng 100 triệu dân thì lực lượng lao động này là 52,4 triệu người. Như vậy, Việt Nam vẫn đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng, nghĩa là dân số có khả năng lao động (độ tuổi từ 15 đến 64) chiếm tỷ lệ cao. Theo nhận định của các chuyên gia dân số, thời kỳ cơ cấu này có thể kéo dài đến năm 2037. Điều đó cho thấy Việt Nam đang có một nguồn cung lao động trẻ khá dồi dào cho thị trường lao động.

Mặc dù thị trường lao động năm 2023 đang phục hồi và hướng ổn định, nhưng xem xét các chỉ số khác vẫn còn đó những áp lực có thể làm cho thị trường lao động xáo trộn, bất ổn trong năm 2024.

Thứ nhất, số lao động có việc làm phi chính thức bao gồm cả những lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản đang rất lớn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số lao động phi chính thức tính chung cho cả năm 2023 là 33,3 triệu người. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,9%, giảm 0,9 điểm phần trăm, giảm thấp hơn 1,8 điểm phần trăm so với năm 2022. Số lao động phi chính thức tăng được lý giải là do sự sụt giảm đơn hàng diễn ra từ năm 2022 đến hết năm 2023 làm ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế, tác động đến thị trường lao động, từ đó làm giảm hiệu quả của các chính sách thúc đẩy chính thức hóa lao động phi chính thức.

Thứ hai, chất lượng lao động cung cho thị trường còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Áp lực này thể hiện qua chỉ số lực lượng lao động đã qua đào tạo. Năm 2023, ước tính khoảng 14,1 triệu người đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ, chiếm 27%. Nếu vậy cả nước vẫn còn trên 38 triệu lao động chưa qua đào tạo. Cũng cần nói thêm rằng, với thời kỳ cơ cấu dân số vàng, lao động trẻ rất cần được đào tạo bởi lục lượng này sẽ dễ dàng tiếp thu khoa học, kỹ thuật và linh hoạt hơn trong chuyển đổi nghề…

Ngoài ra, việc thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch... là những thách thức không nhỏ đặt ra cho thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập. Điều này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong năm 2024 và những năm tiếp theo.

Thứ ba, sự chuyển dịch cơ cấu ngành giữa khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ có dấu hiệu chậm lại trong năm 2023 khi so sánh với các năm 2020, 2022 (năm 2021 không tính đến vì ảnh hưởng rõ của đại dịch Covid-19). Thí dụ, tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp năm 2020, 2022 giảm lần lượt 1 và 1,6 điểm phần trăm thì tăng tương ứng ở khu vực công nghiệp, xây dựng là 0,5 và 0,3 điểm phần trăm, khu vực dịch vụ 0,5 và 1,2 điểm phần trăm. Năm 2023 tỷ trọng này giảm chậm ở cả ba khu vực trên theo thứ tự tương ứng 0,6, 0,1 và 0,6 điểm phần trăm.

Thứ tư, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên năm 2023 là 7,63%, tỷ lệ này hơi cao. Đáng chú ý, tỷ lệ này ở khu vực thành thị cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn; trong khi đó, tỷ lệ thanh niên nông thôn không tham gia học tập, đào tạo ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị.

Thứ năm, số lao động không sử dụng hết tiềm năng trong năm 2023 là khoảng 2,3 triệu người, chiếm tỷ lệ 4,3%. Áp lực này cho thấy mức độ “lệch pha” giữa cung và cầu lao động trên thị trường lao động, có thể phản ánh tình trạng dư cung về lao động cũng như vấn đề kết nối cung- cầu lao động trên thị trường. Tất nhiên, số lao động không sử dụng hết tiềm năng luôn tồn tại trong thị trường và thường tăng cao khi thị trường chịu các cú sốc về kinh tế – xã hội...

Nội dung bài viết được đăng tải trên ẩn phẩm đặc biệt Kinh tế 2023-2024:  Việt Nam & Thế giới phát hành ngày 06/03/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Chính phủ xác định thị trường lao động đóng vai trò trọng yếu của nền kinh tế cùng các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản. Vì vậy, thị trường này cần được đổi mới, phát triển phù hợp với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt, cần chú trọng và tập trung khắc phục các hạn chế như: chưa giải phóng được mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; việc làm còn thiếu bền vững và chưa kết nối cung - cầu lao động giữa các vùng, khu vực, ngành nghề.

Sau đại dịch Covid-19, năm 2023, thị trường lao động trong 3 quý đầu năm gặp khá nhiều khó khăn do nhu cầu của thế giới giảm, đặc biệt với một số nhóm ngành hàng như: dệt may, da giầy, chế biến đồ gỗ… Tuy nhiên, sang quý IV đã có dấu hiệu phục hồi và đến cuối năm 2023, số người có việc làm và thu nhập đều tăng so với năm 2022. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy: số lượng lao động có việc làm quý IV/2023 đạt 51,5 triệu người, tăng 130,4 nghìn người so với quý trước và tăng 414,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tính chung cả năm 2023 ước đạt 51,3 triệu người, tăng 683 nghìn người so với năm 2022. Thu nhập bình quân của lao động quý IV/2023 ước đạt 7,3 triệu đồng/tháng, tăng 180 nghìn đồng/tháng so với quý trước và tăng 444 nghìn đồng/tháng so với cùng kỳ năm trước; tính chung cả năm 2023 đạt 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 459 nghìn đồng/tháng so với năm 2022.

Năm 2023, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 68%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 27-27,5%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 2,76%, đạt mục tiêu Nghị quyết Quốc hội đề ra.

Tuy nhiên, hiện cả nước vẫn còn khoảng 38 triệu lao động qua đào tạo, nhưng chưa có chứng chỉ bằng cấp. Đây là một thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ năng của người lao động, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Từ thực trạng của thị trường lao động Việt Nam, đặc biệt sau đại dịch Covid-19, năm 2023 với tinh thần “Nhìn xa - Chủ động sớm - Hành động mau lẹ - Ứng xử kịp thời”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu Ban Chấp hành Trung ương Đảng  ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/1/2023 về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập quốc tế. Nội dung các chủ trương của Đảng, Nhà nước ban hành đều mang tầm nhìn xa, có tính chiến lược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đòi hỏi các bộ, ngành phải chủ động phối hợp thực hiện.

Đối với thị trường việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo Trung tâm Dịch vụ việc làm các tỉnh, thành phố tập trung kết nối cung - cầu lao động, kết nối thông tin lao động - việc làm giữa các tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào với các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đầu tư hệ thống thông tin thị trường lao động, nhất là việc ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ thông tin trong kết nối cung - cầu lao động. Tăng cường tổ chức các phiên giao dịch việc làm để nhanh chóng kết nối việc làm cho người lao động; đẩy mạnh giải ngân vốn cho vay giải quyết việc làm.

Năm 2023, Bộ tập trung, định hướng, đào tạo và bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực theo nhu cầu thị trường. Đây là vấn đề cấp bách liên quan đến công tác dự báo cung - cầu lao động. Cùng với đó là tiến hành quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, sáp nhập các trường trung cấp, các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, một trường cao đẳng ở một địa phương có thể dạy nhiều hệ khác nhau, nhiều chương trình khác nhau theo tinh thần Nghị quyết 19 của Trung ương.

Hệ thống trường nghề các bộ, ngành, đoàn thể đang được sắp xếp lại theo tinh thần quy về một đầu mối, theo đúng Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045; đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực theo hướng đổi mới sáng tạo; sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập trực thuộc theo hướng tinh gọn, hiệu quả; hình thành cơ sở giáo dục nghề nghiệp có tính chất hạt nhân, dẫn dắt, lan tỏa và thống nhất đầu mối quản lý một số trường chất lượng cao, trường thực hiện chức năng trung tâm vùng, trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao. Nhìn chung quy mô đào tạo, chất lượng đào tạo đã được nâng lên góp phần vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

Từ năm 2024, chúng tôi phối hợp với các bộ, ngành đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong một số ngành nghề mà thế giới đang có nhu cầu như: nhân lực công nghệ chip bán dẫn, hydrogen, đào tạo  chứng chỉ, tín chỉ carbon, phục vụ chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...

Đúng vậy, việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là một trong những giải pháp để góp phần đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, tạo thu nhập và giải quyết việc làm cho thị trường lao động, giúp hàng vạn lao động nhiều vùng quê của Việt Nam phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Năm 2023, Bộ đã đưa 155.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 129% kế hoạch năm, tăng 8,55% so với năm 2022, mức cao nhất từ trước đến nay.

Nhiều năm nay, Nhật Bản luôn là thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn nhất. Vừa qua, trong chuyến công tác cùng Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sang Nhật Bản, chúng tôi đã bàn bạc và thống nhất với Nhật Bản một số vấn đề liên quan đến ba lĩnh vực: lao động; giáo dục nghề nghiệp và phát triển hệ thống an sinh xã hội, trong đó có việc phối hợp tổ chức thi kỹ năng đặc định tại Việt Nam trong năm 2024.

Đây là một vấn đề khá trăn trở đối với tôi, vì chúng ta hiện có 350.000 lao động người Việt đang làm việc tại Nhật Bản, đứng đầu trong 15 quốc gia có lao động làm việc tại đây, nhưng khi tham gia thi đánh giá kỹ năng đặc định, người lao động của Việt Nam phải tốn kém thêm kinh phí, thời gian để sang nước khác thi. Việc thi này rất quan trọng đối với người lao động Việt Nam vì xác định tư cách lưu trú dành cho mình khi đảm nhiệm công việc đòi hỏi kiến thức hoặc kinh nghiệm ở mức độ nhất định trong lĩnh vực ngành nghề đặc định tại Nhật Bản.

Tất nhiên, để đạt được tư cách lưu trú “kỹ năng đặc định” này, người lao động Việt Nam phải hoàn thành chương trình đào tạo kỹ thuật hoặc vượt qua kỳ thi đánh giá kỹ năng đặc định do Chính phủ Nhật Bản tổ chức. Đây cũng là cách chúng ta phải tự nâng cao chất lượng, kỹ năng cho người lao động Việt Nam thực hiện mục tiêu “đi làm thuê, về làm chủ”.

Hội nghị “Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập” được tổ chức là khẳng định của Chính phủ về tuyên bố ổn định và phát triển các loại thị trường – một trong "4 ổn định" trong trọng tâm, chỉ đạo điều hành của Chính phủ hiện nay.

Hội nghị cũng là dịp để các bộ, ngành, các chuyên gia báo cáo, phân tích tình hình thị trường lao động thời gian qua; nhận diện những thuận lợi, cơ hội, khó khăn, thách thức hiện nay để đề xuất các giải pháp hỗ trợ phát triển thị trường lao động nhanh, hiệu quả để làm cơ sở phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) Việt Nam, qua đó kiến nghị những giải pháp để phát triển thị trường lao động, phát triển KT-XH.

Sau khi nghe đại diện các bộ, ngành, các chuyên gia trong nước và quốc tế hiến kế phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh về 9 giải pháp phát triển thị trường lao động thời gian tới. Cụ thể:

Một là, nâng cao nhận thức về thị trường lao động, tuân thủ quy luật các quy luật của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi lao động là hàng hóa đặc biệt để có cơ chế, chính sách phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng linh hoạt, hiện đại, đầy đủ, bền vững, hiệu quả, hội nhập quốc tế, nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, tập trung phát triển lao động có kỹ năng, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao.

Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế (các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các FTA thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết và phê chuẩn. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết thị trường lao động trong và ngoài nước. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm, hệ thống giáo dục nghề nghiệp và lưới an sinh xã hội...

Hai là, nắm bắt nhu cầu, phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm đang là ưu tiên hiện nay như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu… Tập trung xây dựng hệ thống quản trị thị trường lao động hiện đại, minh bạch để mỗi người lao động từ khi tham gia đến khi rời thị trường lao động được quản trị minh bạch, thống nhất, tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động giao dịch việc làm, tiếp cận thông tin về thị trường lao động việc làm; để doanh nghiệp dễ tiếp cận cung lao động, nâng cao chất lượng lao động, cơ sở đào tạo có chiến lược, kế hoạch đào tạo, cung ứng kịp thời, sát với nhu cầu thực tiễn. Đẩy mạnh đầu tư số hóa quản trị lao động việc làm kết nối với số hóa quản lý dân cư.

Ba là, chú trọng đầu tư cả về cơ chế chính sách, nguồn lực để xây dựng hệ thống thông tin và dự báo thị trường lao động đa tầng từ địa phương cấp tỉnh, cấp vùng tới toàn quốc, đa lĩnh vực theo ngành nghề, có các cấp trình độ khác nhau. Hệ thống thông tin và dự báo hướng tới đối tượng người sử dụng là các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, doanh nghiệp và nhất là người lao động và người sử dụng lao động. Chính sách phải dựa trên cơ sở dữ liệu hiện tại và dự báo tương lai.

Nhiều chỉ số của thị trường lao động như tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm, số việc làm được tạo ra… là những chỉ số kinh tế vĩ mô rất quan trọng trong việc chỉ đạo, điều hành KTXH.

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng chính sách việc làm trên nguyên tắc có tính dự báo, tầm nhìn chiến lược, chủ động, phù hợp với cơ chế thị trường, xây dựng nhiêm vụ phù hợp, khả thi, hiệu quả cả ngắn hạn và dài hạn, đa dạng hoá các nguồn tín dụng để thúc đẩy việc tạo việc làm mới, việc làm sáng tạo, chất lượng cao, việc làm bền vững, việc làm xanh, phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa.

Năm là, cần quan tâm tới việc dịch chuyển lao động, việc làm theo địa lý, địa bàn, đảm bảo có cơ cấu phân bổ lao động việc làm hợp lý trên toàn quốc; có cơ chế khuyến khích hỗ trợ dịch chuyển lao động, hỗ trợ các địa bàn còn yếu kém; đẩy mạnh liên kết thị trường việc làm giữa các vùng trong nước, hình thành cơ chế kết nối cung cầu tự động giữa thị trường trong và ngoài nước. Tạo việc làm ở khu vực nông thôn, miền núi để người dân có thể làm việc tại quê hương với mức thu nhập ổn định, để người lao động hạn chế phải xa quê hương. Triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho công nhân, người lao động ở khu công nghiệp và các thành phố lớn. Về việc này, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị về nhà ở xã hội với mục tiêu xây dựng ít nhất 01 triệu căn nhà ở xã hội cho công nhân, người thu nhập thấp đến năm 2030.

Sáu là, đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng thời cơ dân số vàng, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo những kỹ năng ngoại ngữ, tính kỷ luật, kỷ cương… để hội nhập với thị trường lao động thế giới.

Bảy là, thực hiện các văn bản, quy định liên quan tới thị trường lao động, Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông để đẩy mạnh phân luồng và bảo đảm quyền lợi của học sinh vừa được học nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là đối với con em công nhân lao động, chú trọng đào tạo cả kỹ năng nghề và kỹ năng sống. Trong nhiệm kỳ này, đang dành khoảng 2.000 tỷ đồng cho việc đào tạo, dạy nghề và dự kiến sẽ bố trí thêm. Chủ trương của chúng ta là không tiếc kinh phí cho việc này, nhưng sử dụng trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả.

Tám là, rà soát, đánh giá sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng, đề xuất mô hình liên kết vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo vùng, trung tâm đào tạo quốc gia theo vùng kinh tế trọng điểm.

Thị trường lao động phải phục vụ đắc lực, hiệu quả việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng căn dặn: "Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình".

Chín là, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp; xây dựng chính sách ưu đãi cho học tập, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, đánh giá công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo tại doanh nghiệp để thu hút hiệu quả lao động tại chỗ nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu hụt nhân lực cục bộ, vấn đề đứt gãy lao động phục vụ phục hồi nhanh, phát triển bền vững KT - XH.

Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ban, ngành, với các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức tiếp thu đầy đủ, nghiêm túc các ý kiến của các đại biểu dự Hội nghị; nghiên cứu, tham mưu, sớm trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản chỉ đạo về tập trung nguồn lực phát triển thị trường lao động đúng hướng, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững, hội nhập.

(Nhan dan online 2/4/2003) Theo tiến sĩ Hoàng Đức Thân, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp giữa các thị trường và loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân. Tác giả cũng đề xuất giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam.I. Lý luận về phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt NamThị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thừa nhận sản xuất hàng hóa không thể phủ định sự tồn tại khách quan của thị trường. Sản xuất hàng hóa, lưu thông hàng hóa và thị trường đã được khẳng định về lý luận và tồn tại ở Việt Nam, song vấn đề đặt ra là phát triển thị trường như thế nào ? Sự đồng bộ các loại thị trường có phải là tất yếu không ? Bản chất và nội dung phát triển đồng bộ các loại thị trường là gì ?Kinh tế hàng hóa, đối lập với kinh tế tự nhiên, sản phẩm trước khi đi vào tiêu dùng phải qua khâu phân phối lưu thông. Thị trường vừa là kết quả của sản xuất hàng hóa vừa là điều kiện của sản xuất hàng hóa. Sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa hàng và tiền đã dẫn tới sự không khớp nhau về khối lượng, tiến độ, thời gian sản xuất và tiêu dùng hàng hóa. Khi sản xuất xã hội càng phát triển thì đa số nhu cầu của con người được thỏa mãn thông qua thị trường. Bản thân sự tiêu dùng (tiêu dùng cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất) luôn đòi hỏi sự đồng bộ cao, nếu không tiêu dùng không thực hiện được.Trên thị trường có hai nhóm người hoạt động. Nhóm thứ nhất là những người mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ, nhóm thứ hai là những người bán hoặc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng. Sự phân nhóm này chỉ là tương đối và với mỗi người khi này thì thuộc nhóm người mua nhưng khi khác lại thuộc nhóm người bán. Thị trường là giao điểm gặp gỡ, tác động của hai nhóm người này. Cùng thông qua thị trường để giải quyết mâu thuẫn giữa người mua và người bán, bảo đảm thực hiện cân đối giữa cung và cầu. Mâu thuẫn trên thị trường phản ánh mâu thuẫn kinh tế, chính trị, xã hội. Khi mâu thuẫn được giải quyết thì người mua, người bán, người sản xuất, người tiêu dùng đều thực hiện được mục tiêu của mình. Những ách tắc trên thị trường có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng kinh tế, mâu thuẫn gây mất ổn định xã hội.Như vậy, phát triển thị trường là điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa, suy rộng ra là điều kiện của sự phồn thịnh kinh tế xã hội.Nhà nước Việt Nam chủ trương thực thi chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Để phù hợp với môi trường quốc tế mới, chúng ta phải phát triển các thị trường để đáp ứng yêu cầu giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.Trong môi trường quốc tế hóa, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn nhằm vươn tới thị trường ngoài nước, tranh thủ cơ hội quốc tế để phát triển.Như vậy, cả điều kiện chủ quan và khách quan, điều kiện trong nước và ngoài nước, trước mắt và lâu dài đòi hỏi phải phát triển đồng bộ các loại thị trường. Đồng bộ là có sự ăn khớp giữa tất cả các bộ phận hoặc các khâu, tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của chỉnh thể. Để có thể ăn khớp với nhau, các khâu, các bộ phận của một chỉnh thể phải được sắp xếp và hoạt động theo một tương quan tỷ lệ nhất định gọi là tỷ lệ đồng bộ. Vậy, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp giữa các thị trường về loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân.Sự đồng bộ của thị trường trước hết là hệ thống thị trường với đầy đủ các loại hình : thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ... Các thị trường này vừa độc lập với nhau vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường. Mỗi loại thị trường đều có cung - cầu, giá cả, người mua - người bán đặc thù ; có quy luật vận hành đặc trưng và khuynh hướng phát triển khác nhau. Sự quan hệ lệ thuộc, tác động biện chứng giữa các thị trường do quá trình trao đổi hoạt động và phối hợp cung ứng hình thành sản phẩm cuối cùng. Sự độc lập tương đối của các thị trường luôn có xu hướng phá vỡ sự cân bằng tổng thể. Sự phụ thuộc và liên hệ giữa các thị trường đòi hỏi sự cân bằng mới và ăn khớp với nhau. Vấn đề ở đây là, để cân bằng tự phát hay chủ động điều tiết để có sự ăn khớp hợp lý. Vai trò tạo điều kiện và chủ động điều tiết của Nhà nước để tạo sự đồng bộ, ăn khớp và hợp lực các hệ thống thị trường là đặc biệt quan trọng.Vấn đề thứ hai của sự đồng bộ các loại thị trường là vấn đề ăn khớp về cấp độ hay mức độ phát triển thị trường. Về phương diện lịch sử thị trường, có ba cấp độ phát triển như sau :- Cấp độ thị trường cổ điển : Đây là dạng thức của thị trường mà ở cùng một không gian, thời gian, địa điểm ba yếu tố người mua, người bán và hàng hóa xuất hiện đồng thời với nhau. Với dạng thức thị trường này, người ta có thể nhận biết về quy mô, động thái mua bán trên thị trường.- Cấp độ thị trường phát triển : Ở dạng thức thị trường này, hàng hóa không nhất thiết phải xuất hiện đồng thời với người mua, người bán. Người ta có thể mua bán ngay cả trước khi hàng hóa được sản xuất ra. Đó là mua bán theo hợp đồng ký trước. Với dạng thức thị trường này, tính "hiện hữu" của thị trường không nhìn thấy được. Thị trường trải rộng cả không gian và thời gian.- Cấp độ thị trường hiện đại : Trên thị trường lúc này chỉ xuất hiện hoặc người mua, hoặc người bán. Khi đó, người trung gian xuất hiện làm các công việc giao dịch và dịch vụ thương mại. Việc ra đời của các sở giao dịch chứng khoán, sở giao dịch thương mại... đáp ứng yêu cầu dịch vụ mua bán trên thị trường. Đặc trưng của thị trường hiện đại là các hình thức dịch vụ phong phú và phát triển rất cao.Về lịch sử, thị trường lần lượt trải qua ba cấp độ phát triển. Song mỗi quốc gia, khu vực không phải tuần tự diễn ra như vậy. Khi một cấp độ thị trường mới xuất hiện thì ở các nước thực hiện kinh tế thị trường đều có thể xuất hiện dạng thức thị trường đó bất luận trình độ phát triển kinh tế như thế nào. Tuy nhiên, mức độ phát triển, phạm vi và ảnh hưởng của mỗi dạng thức không giống nhau. Hiện nay, với các nước phát triển thì cấp độ thị trường hiện đại chiếm ưu thế phổ biến, thị trường phát triển còn chi phối ở phạm vi rất rộng, thị trường cổ điển là tàn dư. Ở Việt Nam, có thể nói cấp độ thị trường cổ điển là phổ biến, chừng mực nào đó cấp độ thị trường phát triển đã có sức chi phối lớn trên thị trường, còn cấp độ thị trường hiện đại đang ở giai đoạn khởi phát.Vấn đề thứ ba của phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp, nhịp nhàng, cân đối và tạo hợp lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương quan giữa các thị trường trong tổng thể nền kinh tế quốc dân hợp lý thì hoạt động mới có hiệu quả. Từng loại thị trường cũng như hệ thống thị trường trong nền kinh tế quốc dân là một chỉnh thể thống nhất, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Sự ăn khớp nhịp nhàng, cân đối giữa các loại thị trường theo yêu cầu của sản xuất và đời sống. Tính nhịp nhàng, cân đối về mặt lượng là tương quan tỷ lệ hợp lý giữa hàng và tiền, cung và cầu ở tầm vĩ mô. Sự nhịp nhàng cân đối còn thể hiện ở sự khớp nhau về tiến độ, thời gian, phạm vi trong tiến trình hình thành và phát triển thị trường "đầu vào", "đầu ra" của quá trình sản xuất.Sự ra đời của các loại thị trường và khả năng đồng bộ của chúng do trình độ và yêu cầu sản xuất xã hội quyết định. Nói một cách khác là nó mang tính khách quan. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết, điều chỉnh thị trường bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Không thể chủ quan "nặn ra" thị trường và khuôn ranh giới cho thị trường. Mọi sự tác động duy ý chí sẽ tạo ra thị trường ngầm, Nhà nước không quản lý được.II. Giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt NamGần mười sáu năm thực hiện đường lối đổi mới của cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu to lớn. GDP tăng bình quân hơn 7%/năm, năm 2002 đạt 7,04%. Cơ cấu kinh tế đã có thay đổi lớn : tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 38,7% (năm 1990) xuống còn 22,99% (năm 2002) ; các con số tương ứng về tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên 38,55% ; tỷ trọng dịch vụ là 38,6% và 38,46%. Đặc biệt, chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch ; khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và các nước Đông Âu bị tan rã. Việt Nam đã thực hiện quá trình hội nhập có kết quả, chính thức là thành viên của ASEAN và APEC, ký Hiệp định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Kinh tế trong nước phát triển, quan hệ quốc tế rộng mở đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.Bên cạnh những thành tựu đó, Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn. Nền kinh tế chưa phát triển ổn định, cơ bản vẫn là nước nghèo, GDP trên đầu người vẫn ở mức thấp. Những yếu kém về tổ chức quản lý nền kinh tế, cải cách hành chính chậm, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài giảm sút... đang là lực cản và khó khăn cho tiến trình đổi mới.Thị trường đã có những thay đổi lớn trong những năm qua. Thị trường mua bán hàng hóa dịch vụ phát triển khá tốt. Thị trường này hoạt động rất sôi động, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng liên tục hằng năm với tốc độ tương đối cao ; mặt hàng ngày càng đa dạng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất và đời sống dân cư. Đã hình thành được thị trường thống nhất và thông suốt trong cả nước, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập khu vực và quốc tế. Đối với nhiều mặt hàng, ở một số trung tâm lớn, thị trường hàng hóa dịch vụ đã phát triển ở trình độ khá cao, tốc độ gia tăng mạnh mẽ. Thị trường này đã có đủ các thành phần kinh tế góp mặt và sự vận hành của nó, về cơ bản, được tuân thủ theo các quy luật khách quan ; sự quản lý và điều tiết của Nhà nước với thị trường hàng hóa dịch vụ đã có nhiều thay đổi theo hướng tôn trọng tính khách quan, phù hợp với tập quán, thông lệ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, quy mô thị trường hàng hóa dịch vụ vẫn còn nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hóa Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế. Định hướng và các chính sách về thị trường của Nhà nước còn nhiều bất cập.Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng là quá trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính. Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hóa sở hữu, tự do hóa kinh doanh, đòi hỏi phải có thị trường tài chính đủ mạnh để nền kinh tế hoạt động bình thường. Thị trường vốn, tiền tệ, chứng khoán... ra đời vừa bảo đảm sự ăn khớp giữa lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ, vừa tạo vốn cho các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Từ cơ chế "tiếp nhận" chuyển sang cơ chế tuyển chọn và đa dạng hóa kinh doanh, tự do hóa hành nghề trong điều kiện mở cửa với nước ngoài đã tạo tiền đề cho sự ra đời của thị trường lao động. Hiện nay, thị trường lao động phổ thông khá phát triển ; thị trường lao động có trình độ cao và đặc biệt thị trường chất xám còn nhỏ bé, trong lúc không ít cản trở như cư trú, hộ khẩu, sự chuẩn bị trình độ cho người lao động, các công ty cung ứng dịch vụ lao động đồng bộ đã làm chậm sự phát triển và đang chia cắt thị trường lao động.Sức ép của cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Thị trường mua bán công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới, hoàn thiện và nâng cao trình độ công nghệ của các nhà sản xuất kinh doanh. Thị trường này hiện nay chưa nhộn nhịp vì khả năng thanh toán của người mua còn hạn chế.Đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước. Các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức, theo quy định của pháp luật không được tự do mua bán đất. Trong thực tế, người ta vẫn mua, bán đất nhưng dưới hình thức khác. Như vậy, thị trường "ngầm" mua bán đất đang tồn tại. Do đó, giá trị thật và giá trị danh nghĩa của đất đai có khoảng cách rất lớn. Giá trị của đất chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hóa dịch vụ không phản ánh đúng giá trị thực tế và mang tính áp đặt hành chính. Nó không bảo đảm tương đồng về giá trị với các yếu tố chi phí khác của hàng hóa tiêu dùng trên thị trường.Để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, cần thực hiện những giải pháp cơ bản như sau :Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho tự do sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa sở hữu, đa dạng hóa thành phần kinh tế. Bảo đảm tự do hành nghề theo quy định của luật pháp, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hóa lãi suất tín dụng. Doanh nghiệp được tự quyết định và chủ động trong kinh doanh. Đây là điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất hàng hóa, tạo lập cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển các loại thị trường.Thứ hai, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách. Bảo đảm mọi hoạt động của người mua, người bán, người sản xuất, người tiêu dùng thực hiện trong khuôn khổ luật pháp và được điều chỉnh bằng luật pháp. Đó là cách để các tư tưởng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả trong thực tiễn, bảo đảm cơ sở ổn định và lâu dài, tạo dựng niềm tin cho người sản xuất kinh doanh.Thứ ba, xây dựng đồng bộ các chính sách về thị trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính tiền tệ, đất đai, lao động, khoa học và công nghệ, đầu tư,... Sự đồng bộ, nhất quán của các chính sách sẽ tạo hợp lực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường.Thứ tư, giải pháp tăng nguồn cung ứng hàng hóa cho thị trường. Hàng hóa cho thị trường giống như lương thực cho cuộc sống của con người. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước phải cân đối tổng cung và tổng cầu hàng hóa (cả hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình) theo các thời hạn khác nhau. Trên cơ sở đó, kích thích tăng hoặc kìm hãm giảm lượng hàng hóa lưu thông. Đổi mới cơ cấu nền kinh tế phải xuất phát từ yêu cầu tiêu dùng xã hội, dân cư và thông qua thị trường chứ không phải là sự áp đặt chủ quan duy ý chí. Đồng thời, Nhà nước phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể, phù hợp để định hướng phát triển, phân bố và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp phải tăng đầu tư tích lũy, nhất là đổi mới công nghệ, thường xuyên thay đổi mới mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường. Để phát triển thị trường, phải có cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải điều chỉnh, hoàn thiện để thích ứng với môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế, từng bước xóa bỏ độc quyền hành chính.Thứ năm, đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích sự phát triển của các loại thị trường. Đối với những vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp tự túc còn phổ biến như vùng núi, vùng sâu, vùng xa phải đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thuận lợi cho giao lưu hàng hóa giữa các vùng, xây dựng chợ hoặc trung tâm thương mại để có nơi trao đổi, mua bán hàng hóa. Ở những nơi kinh tế và thị trường phát triển chủ yếu đầu tư theo chiều sâu (đầu tư chất xám, phương tiện kỹ thuật hiện đại), phải phát triển dịch vụ, hình thành các trung tâm phát luồng và định hướng thị trường (thị trường bán buôn, trung tâm giao lưu kinh tế với nước ngoài, sở giao dịch hàng hóa, sở giao dịch chứng khoán, trung tâm đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực...).Thứ sáu, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, nhà kinh doanh. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Thực hiện đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa các hình thức kinh doanh quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế.Phát triển đồng bộ các loại thị trường theo tinh thần Đại hội lần thứ IX của Đảng vừa là vấn đề cấp bách vừa là vấn đề lâu dài. Chủ động tạo môi trường vĩ mô và khuyến khích mọi thành phần, mọi nguồn lực tham gia thị trường là vấn đề then chốt cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam. Tiến sĩ HOÀNG ĐỨC THÂN(Tạp chí Cộng sản)