Hoàng Minh Thảo Và Vợ Con Ở Đâu Ở Việt Nam
Cuộc sống ở Nhật Bản như thế nào chắc hẳn là câu hỏi của nhiều du học sinh và thực tập sinh khi có dự định đến với xứ Phù Tang. Nhật Bản có “màu hồng” như những lời đồn thổi? Hãy cùng Thanh Giang tìm hiểu qua những chia sẻ dưới đây.
Một số điều thú vị về cuộc sống ở Nhật Bản có thể bạn chưa biết
Bên cạnh những áp lực về học tập và công việc đấy, cũng sẽ có những khoảng thời gian bạn nhận ra Nhật Bản thật yên bình phía sau những giờ làm việc hết công suất. Không khí trong lành với bầu trời xanh, nắng nhẹ, đôi chút se lạnh. Hãy thử dạo quanh một con phố ở Nhật và ngắm nhìn nhịp sống của người Nhật, chắc chắn nó sẽ cho mỗi người một cảm nhận khác nhau về Nhật Bản, con người nơi đây. Hoặc bạn có thể đến những khu chợ cũ ở Nhật, thưởng thức một chút món ăn đường phố. Và đặc biệt là tình cờ chúng ta lại gặp được người Việt nơi đất khách. Cái cảm giác ấy thật lạ, dù không quen biết nhau nhưng khi đó chúng ta cùng là người Việt Nam. Và nhân tiện bạn có thể biết đến một số điều thú vị nơi đây!!!
CLICK NGAY để được tư vấn và hỗ trợ MIỄN PHÍ
Chat trực tiếp cùng Thanh Giang
Link facebook: https://www.facebook.com/thanhgiang.jsc
Hoàng Minh Thảo (25 tháng 10 năm 1921 - 8 tháng 9 năm 2008) là một Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Là một vị tướng trận mạc, ông cũng đồng thời được biết đến là một nhà lý luận quân sự hàng đầu của Việt Nam.
Ông tên thật là Tạ Thái An, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1921 tại xã Bảo Khê, huyện Kim Động (nay thuộc thành phố Hưng Yên), tỉnh Hưng Yên, con ông Tạ Quang Khai và bà Nguyễn Thị Tành. Cha ông là một tiểu chủ yêu nước làm nghề thợ may, do tham gia phong trào yêu nước nên bị Pháp lùng bắt, vì vậy đã đưa gia đình lên sinh sống tại vùng Tràng Định - Thất Khê (Lạng Sơn). Tuổi thơ ông lớn lên tại vùng rừng núi này.
Sau khi hoàn thành lớp nhất (tương đương với lớp 5 hiện nay), ông được cha gửi xuống Hà Nội ở nhờ ông Mai Phúc Tường (hiệu Quảng Thái) ở 29 Hàng Bồ để học tiếp bậc trung học tại trường tư thục Thăng Long[1]. Sau này khi ông Hoàng Minh Thảo hoạt động cách mạng đã được gia đình ông Mai Phúc Tường che giấu hoạt động. Cũng trong quãng thời gian này, trong những lần về Lạng Sơn nghỉ hè, ông giác ngộ cách mạng qua những đợt tham gia buổi tuyên truyền của Đảng. Năm 1937, Tạ Thái An được xếp vào danh sách cảm tình Đảng tại cơ sở Đảng ở Lạng Sơn và tham gia Đoàn thanh niên dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lấy bí danh hoạt động là Tạ Quang. Năm 1941, ông tham gia Việt Minh, rồi được cử đi học quân sự ở Liễu Châu, Trung Quốc. Cuối năm 1944, ông tham gia gây dựng cơ sở chính trị và xây dựng lực lượng du kích ở vùng biên giới Lạng Sơn.
Sau khi về nước, ngày 7 tháng 1 năm 1945, tham gia Ban phụ trách công tác biên giới của Tổng bộ Việt Minh, Ủy viên dự khuyết Tỉnh ủy lâm thời Lạng Sơn. Ngày 3 tháng 3 năm 1945, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tham gia giành chính quyền ở Lạng Sơn. Cái tên Hoàng Minh Thảo ra đời trong thời gian này và gắn bó với ông cho đến tận cuối đời.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1949, ông là phái viên của Bộ Quốc phòng ở các tỉnh duyên hải tả ngạn sông Hồng, Khu trưởng Chiến khu III, Phó tư lệnh Liên khu III. Năm 1948, ông được phong quân hàm Đại tá Quân đội Quốc gia Việt Nam trong đợt phong hàm đầu tiên.
Từ 1949-1950, ông làm Tư lệnh Liên khu 4.
Sau Chiến dịch Biên giới 1950, các đại đoàn quân chính quy được thành lập. Ông được bổ nhiệm làm Đại đoàn trưởng đầu tiên của Đại đoàn 304 (1950-1954).
Sau năm 1954, ông được phân công công tác đào tạo cán bộ quân sự, xây dựng Học viện Quân sự. Ông giữ chức vụ Hiệu trưởng Học viện Quân sự liên tục từ 1954 đến 1966 (nay là Học viện Lục quân Đà Lạt). Năm 1962, ông nghiên cứu ở Học viện Quốc phòng Bắc Kinh. Sau này có học bổ túc quân sự ở Liên Xô (cũ). Ông thông thạo tiếng Pháp, tiếng Trung quốc.
Từ tháng 11 năm 1966, ông được điều vào Nam giữ chức Phó tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Chính qua trận đụng độ giữa Quân giải phóng Miền Nam và quân Mỹ tại Iađrăng mà ông đã ghi nhận lại được những nguyên tắc quan trọng giúp Quân giải phóng Miền Nam giành được một số lợi thế khi giao chiến với một đối phương có ưu thế tuyệt đối về hỏa lực và cơ động.
Năm 1968, ông là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tháng 8 năm 1974, ông giữ chức Phó tư lệnh Quân khu V; tháng 3 năm 1975, là Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên.
Sau 1975, từ tháng 5 năm 1976 đến 1989, ông trở lại giữ chức Viện trưởng Học viện Lục quân Đà Lạt (1976-1977), Viện trưởng Học viện Quân sự Cấp cao (1977-1989, nay là Học viện Quốc phòng Việt Nam), năm 1987, kiêm Phó chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ quốc phòng.
Từ năm 1990, ông là Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự, Bộ Quốc phòng Việt Nam và giữ chức vụ này cho đến khi nghỉ hưu (1995).
Ông qua đời lúc 8 giờ sáng ngày 8 tháng 9 năm 2008 tại Hà Nội và được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch.
Ngoài nắm giữ các chức vụ Tư lệnh các chiến dịch quan trọng, quản lý các Học viện quân sự, ông còn là một người thầy của nhiều thế hệ tướng lĩnh quân đội, một nhà nghiên cứu lịch sử quân sự và lý luận quân sự xuất sắc ở tầm chiến lược.
Ông được phong Giáo sư ngành Khoa học quân sự năm 1986, Nhà giáo nhân dân năm 1988.
Ông là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự. Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam.
Ông nghỉ hưu vào năm 1995, nhưng vẫn tham gia công tác nghiên cứu về khoa học quân sự.
Ông đã được Nhà nước Việt Nam đã tặng thưởng các huân chương:
Năm 2005, ông được Nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Cụm công trình về nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Ngày 17 tháng 10 năm 2023, ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Định nghĩa như thế nào là một cuộc sống tốt?
Một cuộc sống như thế nào là tốt sẽ tùy thuộc vào cách nghĩ của mỗi người nhưng một điều không thể phủ nhận đó là bạn phải cảm thấy vui vẻ và ý nghĩa với cuộc sống đó. Tôi không phải là chuyên gia về hạnh phúc, nên chỉ đưa ra một vài tiêu chí của tui:
Cần phải định nghĩa rõ ràng vì người ta rất hay QUÊN. Nhiều người đi từ Việt Nam sang Nhật lại hay quên béng mất ở Việt Nam cuộc sống khó khăn thế nào, sau khi sang Nhật cuộc sống dễ thở hơn nhiều thì lại kêu chán vì không có bạn bè, không có nhiều thời gian đi ăn nhậu. Ngược lại cũng thế, nhiều người từ Nhật về Việt Nam thì kêu ở Nhật chán quá, ở Việt Nam vui hơn mà quên là thời gian ở Nhật giúp họ có cuộc sống an toàn, sức khỏe tốt và cơ hội học tập các kỹ năng, lấy bằng cấp tốt như thế nào. Nếu bạn là người như thế thì bạn không cô đơn, có rất nhiều người như thế bao gồm cả tôi – Takahashi – người tù vĩnh cửu. Dù sao, hiện tại thì tôi nhìn nhận sự việc khách quan hơn rất nhiều và nhận thấy là: Sống ở đâu cũng không tệ, miễn là chúng ta biết làm sao cho cuộc sống vui vẻ và dễ dàng hơn (= “Theo đuổi lý tưởng”)
Nhiều người trong chúng ta hay:
隣の花は赤い Tonari no hana wa akai = Đứng núi này trông núi nọ
Bởi vì chúng ta đã quên đi lúc xuất phát ban đầu. Thực tế thì tôi nghĩ cuộc sống của mỗi người trong chúng ta càng ngày càng tốt đẹp hơn, nhất là khi chúng ta đã bước chân ra đi, học được thêm ngoại ngữ mới, biết được nhiều thứ mới và học được các kỹ năng sinh tồn trong cuộc sống (bao gồm cả các kỹ năng nghề nghiệp). Nhưng nhiều người vẫn khổ tâm vì họ đã quên xuất phát điểm ban đầu gian khó mà thôi. Tôi sống khá thanh thản vì tôi nhớ khá rõ quá trình mình đã đi qua và nhận thấy cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, ngày càng tự do hơn.
Ngạn ngữ tiếng Nhật có một câu rất hay:
初心を忘れずべからず Shoshin wo wasurezu bekarazu = Không được quên đi điểm xuất phát của bạn
Shoshin (kanji: SƠ TÂM) chính là nói về thời điểm ban đầu lúc bạn học nghề hay kỹ năng gì đó. Bạn không được quên đi mục đích trong sáng (Shoshin) khi đó, nếu không bạn sẽ gặp rắc rối. Hãy nhớ lại vì sao bạn bước chân ra đi (du học hay định cư chẳng hạn)? Đừng quên điều đó. Chẳng phải để nhìn thế giới bên ngoài, học hỏi ngoại ngữ và các kỹ năng nghề nghiệp hay sao? Không quên đi thuở ban đầu là cách tốt để chúng ta tiếp tục theo đuổi lý tưởng của mình mà không chệch hướng khỏi đó.