Hàng Xuất Khẩu English Là Gì Của Mỹ Nghệ An
Hàng thủ công mỹ nghệ có tên tiếng anh là handicraft hoặc handmade, là một nhánh của ngành thủ công nghiệp được làm hoàn toàn bằng tay để tạo ra
Tổ chức các gian hàng, hội chợ tại nước ngoài
Tại mỗi kỳ hội chợ tại nước ngoài, các doanh nghiệp tại Việt Nam đã kết nối trực tiếp với trung bình khoảng 500 khách hàng đến từ nhiều quốc gia trên thế giới với nhiều khách hàng tiềm năng đã và đang mua hàng trong khu vực. Thông qua việc tham gia hội chợ không những giúp các doanh nghiệp Việt Nam quảng bá thương hiệu, sản phẩm mà còn giúp các doanh nghiệp quan sát, học hỏi, nắm bắt xu hướng về màu sắc, chất liệu, và ý tưởng về thiết kế và kiến trúc. Từ đó giúp doanh nghiệp có định hướng đúng trong phát triển sản phẩm, ngoại giao, tiếp xúc với đối tác nhằm thúc đẩy hơn cơ hội hợp tác kinh doanh xuất khẩu hàng hóa.
Đối với hoạt động xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu tại Việt Nam, Hội chợ quốc tế chuyên ngành Thủ công mỹ nghệ – Lifestyle Vietnam là sự kiện xúc tiến thương mại thường niên quan trọng, tạo điểm nhấn giúp quảng bá thương hiệu, sản phẩm thu hút người dùng, khách du lịch trong và ngoài nước. Bên cạnh các doanh nghiệp xuất khẩu hàng trang trí, đồ gỗ, hàng gia dụng, quà tặng từ Việt Nam còn có các gian hàng của các doanh nghiệp từ các nước trong khu vực: Lào, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan…, các doanh nghiệp châu Âu, châu Phi, thu hút khoảng 2000 nhà nhập khẩu từ các quốc gia trên thế giới. Theo thống kê có đến 15.000 khách hàng Việt Nam đến thăm quan và giao dịch tại hội chợ.
Tuy nhiên năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Lifestyle không thể tổ chức hội chợ theo phương thức truyền thống. Theo đó, để giúp công ty duy trì hoạt động thương mại kết nối với khách hàng, Bộ Công Thương đã phê duyệt đề án tổ chức Hội chợ Lifestyle Vietnam theo hình thức trực tuyến. Đồng thời các hình thức quảng bá, tuyên truyền ngành Thủ công mỹ nghệ Việt Nam cũng được đẩy mạnh triển khai trên các nền tảng số, sử dụng các công cụ trực tuyến như: Facebook, Instagram, Youtube.
Tiến trình sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang mở ra rất nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Do đó, để ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam có thể mạnh mẽ vươn ra thế giới, ngành TCMN cần xác định định hướng chiến lược xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giai đoạn 2021 – 2025 là Nâng cao năng lực xuất khẩu chuỗi giá trị hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên cơ sở tập trung vào các nhóm mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, gia tăng giá trị sản phẩm, tăng cường hợp chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng được nhiều phân khúc thị trường khác nhau, trong đó tập trung vào phân khúc thị trường trung và cao cấp.
TÌM HIỂU THÊM: KHÓ KHĂN TÌM ĐẦU RA CỦA SẢN PHẨM THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
Tài liệu Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp: ... Ebook Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp
Tóm tắt tài liệu Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THƯƠNG MẠI -------------&----------- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP §Ò tµi XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY ARTEX THĂNG LONG SANG THỊ TRƯỜNG EU THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Giảng viên hướng dẫn : ThS. Cấn Anh Tuấn Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Lan Anh Chuyên ngành : QTKD Lớp : Thương mại A Khóa : 46 Hệ : Chính quy Hà Nội 4 - 2008 MỤC LỤC DANH MỤC TÊN BẢNG BIỂU Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam giai đoạn 1999- 2007 Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam sang EU Bảng 3: Số liệu về việc nhập hàng từ các nguồn hàng quan trọng đối với từng mặt hàng chính của công ty trong 3 năm gần đây Bảng 4: Tình hình xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty từ 2004-2007 Bảng 5: Km ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo thị trường của công ty ARTEX Thăng Long năm 2005-2007 Bảng 6: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty gần B ảng 7: Vốn của công ty trong 4 năm gần đây Bảng 8: Thu nhập bình quân của mỗi người trong từng phòng ban của công ty Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn 2005- 2007 của công ty ARTEX Thăng Long. Bảng 10: Tỷ trọng hàng thêu ren xuất khẩu sang thị trường EU của công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007 Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre, cói, guột, gỗ, nhựa các loại sang thị trường EU của công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007 Bảng 12: Kim ngạch xuất khẩu hàng g ốm s ứ sang thị trường EU của công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007 Bảng 13: Kim ngạch xuất khẩu h àng TCMN kh ác sang thị trường EU của công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007 Bảng 14: Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN sang các nước EU của công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007. Bảng 15: Kim ngạch xuất khẩu trực tiếp hàng TCMN sang EU của công ty ARTEX Thăng Long giai đoạn 2005- 2007 Bảng 16: Kim ngạch xuất khẩu nhận uỷ thác hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường EU trong giai đoạn 2005- 2007 LỜI NÓI ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN sẽ mang lại một lợi ích to lớn không chỉ về kinh tế mà còn về văn hóa xã hội. So với những nhóm hàng khác, hàng TCMN được coi là nhóm hàng có tỉ lệ thực thu sau xuất khẩu rất cao do sử dụng đến 95 % nguyên liệu sẵn có và rẻ tiền trong nước. Thúc đẩy hàng TCMN còn tạo được công an việc làm cho rất nhiều người lao động, đặc biệt là lao động nhàn rỗi, tại chỗ góp phần ổn định kinh tế nông thôn và giảm tệ nạn xã hội, duy trì và bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Đây là những lợi ích đem lại cho toàn nền kinh tế quốc dân và hoạt động này cũng có vai trò rất quan trọng đối với Công ty ARTEX Thăng Long. Là một đơn vị với nghiệp vụ kinh doanh chính là xuất khẩu hàng TCMN, thì đây được coi là vấn đề quan trọng nhất, luôn được đưa ra trong định hướng chiến lược của Công ty. Xuất khẩu hàng TCMN đã mang lại lợi nhuận cao cho công ty do Công ty có nhiều ưu thế về xuất khẩu hàng TCMN. Hầu hết các cán bộ nhân viên đều nắm rất rõ về mặt hàng này, công ty còn có mối quan hệ chặt chẽ và lâu đời với các cơ sở chân hàng, có mối quan hệ rộng với nhiều cơ sở trong nước điều này giúp cho hàng TCMN của công ty khá phong phú, đa dạng về mẫu mã, thu hút được sự chú ý của khách hàng. Eu là một thị trường truyền thống và luôn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu sang các khu vực thị trường của công ty. Đặc biệt trong những năm gần đây thị trường này có nhu cầu rất lớn về hàng TCMN, họ rất chú ý đến mặt hàng TCMN của Việt Nam, họ đánh giá cao về độ tinh xảo trong từng họa tiết hoa văn trên mỗi sản phẩm mang đậm sắc văn hóa dân tộc. Điều này cho thấy phát triển xuất khẩu hàng TCMN sang thị trường EU là một cơ hội cho công ty. Trong bối cảnh như vậy, việc tìm ra những biện pháp cụ thể để nâng cao khả năng xuất khẩu các sản phẩm TCMN của công ty ARTEX Thăng Long vào EU là rất cần thiết. Chính vì những lý do trên nên em đã chọn đề tài: “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường EU: Thực trạng và giải pháp.” 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Như ở trên đây đã nói, phát triển xuất khẩu hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long vào thị trường EU có vai trò rất lớn trong hoạt động kinh doanh của công ty. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tìm hiểu về thực trạng xuất khẩu hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường EU trong những năm gần đây và từ đó đưa ra được những giải pháp cụ thể để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài. Xuất khẩu nói chung là một vấn đề rất rộng lớn nên không thể đề cập hết được ở đây. Trong đề tài này ta chỉ nghiên cứu trong phạm vi xuất khẩu hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long chỉ trong thị trường EU. Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Trong đề tài em có dùng những phương pháp như: phương pháp phân tích theo mô hình, phân tích ngoại suy, phương pháp phân tích số liệu, đưa ra số liệu thống kê và phân tích… 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài có kết cấu 3 chương: Chương 1: Thực trạng xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam và giới thiệu khái quát quá trình hình thành phát triển của công ty ARTEX Thăng Long. Chương 2: Thực trạng kinh doanh và xuất khẩu hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long vào thị trường EU năm 2005-2007. Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy hàng TCMN sang thị trường EU của công ty ARTEX Thăng Long. Để hoàn thành được chuyên đề này, trong thời gian thực tập tại công ty ARTEX Thăng Long. JSC, em đã được các cô chú tại phòng Thị trường và phòng Kế toán của công ty giúp đỡ và tạo mọi điều kiện, cùng với sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo THS Cấn Anh Tuấn. Nhưng do thời gian còn hạn chế và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên đề tài của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự đánh giá và góp ý chân thành từ thầy giáo cũng như các cô chú trong công ty. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM VÀ GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY ARTEX THĂNG LONG. 1.1.Thực trạng xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam. 1.1.1.Đặc điểm hàng Thủ công Mỹ nghệ. 1.1.1.1.Các quan niệm về hàng thủ công mỹ nghệ. Thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có nhiều ưu điểm đặc biệt càng ngày càng được ưa chuộng và được dùng phổ biến ở khắp mọi nơi trên thế giới. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về hàng TCMN: * Theo quan niệm của các chuyên gia nghiên cứu về hàng TCMN cho rằng hàng TCMN là sản phẩm của những làng nghề truyền thống, mang tính đơn chiếc và có tính mỹ thuật cao. Mỗi sản phẩm có thể nói là một tác phẩm nghệ thuật, quá trình sản xuất tuân theo công nghệ truyền thống và thường nhậy bén với thị trường trong mẫu mã, chất lượng và có điều kiện linh hoạt thay đổi hướng sản xuất. * Các nghệ nhân làm trong nghề thì quan niệm rằng mặt hàng TCMN thuộc nhóm ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống, hình thành lâu đời ở một địa phương mà quy trình sản xuất thường do những nghệ nhân hoặc công nhân lành nghề đảm nhận và có trách nhiệm. Sản phẩm thường có tính địa phương và mang bản sắc văn hóa địa phương, dân tộc sâu sắc. Hình thức đào tạo thường mang tính chất truyền thống theo dòng họ và làng tộc. * Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì cho rằng hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng bao gồm các đồ trang sức trang trí làm bằng tay, sử dụng công cụ đơn giản để sản xuất ra sản phẩm. Từ những quan niệm trên ta có thể rút ra một quan niệm chung như sau: Hàng TCMN những hàng hóa được sản xuất bằng phương pháp thủ công, gắn liền với phong tục tập quán và mang đậm các nét văn hóa của nơi tạo ra hàng hóa đó. Ở nước ta từ trước đến nay vẫn tồn tại nhiều nghề với nhiều làng nghề truyền thống và đã có tên tuổi trong lịch sử phát triển đất nước, con người Việt Nam như: Tơ lụa Hà Đông, Gốm Phù Lãng, Gỗ Đông Kỵ, Gốm Bát Tràng…Ở những nơi đó hội tụ các nghệ nhân lành nghề và chính họ đã tạo ra những sản phẩm có thể nói là những tác phẩm nghệ thuật Từ đó cho thấy hàng TCMN là những sản phẩm mang tính chất truyền thống và độc đáo của từng vùng, có giá trị chất lượng cao, vừa là hàng hóa lại là những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, mỹ thuật thậm chí có thể trở thành di sản văn hóa của dân tộc, mang bản sắc văn hóa của từng vùng lãnh thổ hay từng quốc gia nơi sản xuất ra những sản phẩm đó. Hàng thủ công mỹ nghệ không những là những tác phẩm phục vụ cho đời sống tinh thần hay nhu cầu thưởng thức của xã hội mà còn là những sản phẩm vật chất đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chính vì điều này mà ngày nay hàng thủ công mỹ nghệ không những có nhu cầu cao ở trong nước mà các thị trường nước ngoài cũng rất chú ý đến những sản phẩm này và liên tục phát triển theo xu hướng hội nhập, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới. 1.1.1.2. Phân loại hàng thủ công mỹ nghệ Hàng TCMN là những mặt hàng thường có tính cơ bản là đơn chiếc, không có sản phẩm nào là giống hệt sản phẩm khác. Có rất nhiều cách để phân loại hàng thủ công mỹ nghệ để từ đó có thể hiểu rõ hơn về hàng thủ công mỹ nghệ, tuy nhiên trong cuộc sống hàng ngày các làng nghề, các thợ thủ công hay những nghệ nhân thường dựa vào các cách phân loại sau để phân biệt hàng thủ công mỹ nghệ: - Phân loại theo từng mặt hàng thủ công mỹ nghệ (theo nguyên liệu) gồm: + Gốm sứ mỹ nghệ + Mây tre đan + Sơn mài + Đồ gỗ mỹ nghệ + Thêu ren, thổ cẩm + Thảm các loại + Đồng, đá, bạc trạm, khắc + Kim loại( kim khí mỹ nghệ) + Giấy thủ công + Tác phẩm nghệ thuật… - Phân loại theo các làng nghề: Theo tiêu chí này hàng thủ công mỹ nghệ có thể được biết đến từ các làng nghề mà chuyên sản xuất mặt hàng đó, ví dụ: Gốm Bát Tràng, Gốm Phù Lãng, hàng mây, tre, cói ở Hà Tây, hàng gỗ thủ công mỹ nghệ ở Phù Khê, Hương Mạc, hàng dệt ở Vạn Phúc (Hà Tây)…Theo cách phân loại này sẽ giúp cho khách hàng biết rõ hơn về nguồn gốc của hàng thủ công mỹ nghệ và có thể làm tăng được mức độ nổi tiếng của từng sản phẩm thủ công mỹ nghệ khi so sánh các sản phẩm này ở từng làng nghề khác nhau. - Ngoài ra chúng ta có thể phân loại hàng TCMN theo công dụng của từng sản phẩm. Tức là có thể phân hàng thủ công mỹ nghệ thành hàng để sử dụng (giỏ hoa, lọ, cốc, chén, giường, tủ, bàn, ghế…) và hàng để “chơi” (đồ lưu niệm, tranh treo tường, đồ trang trí…). Qua cách phân loại có thể thấy được hàng thủ công mỹ nghệ là loại hàng hóa có thể thỏa mãn cùng lúc hai mục đích “dùng” và “chơi”, tuy nhiên mỗi sản phẩm vẫn giữ được nét văn hóa và nghệ riêng của từng làng nghề sản xuất ra chúng. Trên đây là một số cách phân loại hàng thủ công mỹ nghệ, tuy nhiên trong đề tài này chỉ đề cập đến cách phân loại thứ nhất là phân loại theo mặt hàng và dùng cách phân loại này để phân tích xuyên suốt đề tài. 1.1.1.3. Đặc điểm của hàng Thủ công mỹ nghệ. a) Đặc điểm chung của hàng thủ công mỹ nghệ - Tính đa dạng: Hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất ra từ những nguyên liệu rẻ tiền và sẵn có ở thiên nhiên bao gồm các loại nguyên liệu có nguồn gốc từ thực vật: vỏ cây, thân gỗ, thân sợi, các loại lá, củ…hay các loại nguyên liệu xuất phát từ các loại động vật như da động vật, ngà sừng…cùng với một số loại nguyên liệu được lấy từ đất, đá hay các kim loại, các phế liệu của ngành sản xuất khác…Đây là ưu thế lớn nhất của ngành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ có cơ hội phát triển từ việc tận dụng nguyên vật liệu sẵn có trong nước để tạo ra các sản phẩm này. Sự phong phú của nguyên liệu cũng thể hiện được tính đa dạng của sản phẩm thủ công mỹ nghệ và tạo nên những sản phẩm độc đáo. Tính đa dạng của sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn thể hiện rõ ở khía cạnh văn hóa. Mỗi sản phẩm mang những nét riêng về phong tục tập quán của mỗi địa phương nơi làm ra những sản phẩm đó, điều này làm tăng giá trị cho sản phẩm và gây cho khách hàng một sự thích thú, như một sự khám phá khi thấy sản phẩm. Tất cả những sản phẩm đó đều mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, chứa đựng trong đó những ảnh hưởng văn hóa tinh thần, quan niệm nhân văn, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. - Tính đơn chiếc: Hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất phân tán ở khắp nhiều nơi trong những làng nghề, hay những địa phương, có quy mô nhỏ và số lượng sản xuất là ít. Hàng thủ công mỹ nghệ là loại hàng hóa chủ yếu được tạo ra từ bàn tay khéo léo và tài hoa của những nghệ nhân. Họ chính là những lao động trẻ ở nông thôn, những thợ thủ công… Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, thì cho dù khoa học công nghệ phát triển cho ra đời rất nhiều các sản phẩm máy móc hỗ trợ cho việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ nhưng cũng không thể thay thế được con người trong việc tạo ra các sản phẩm mang “tâm hồn” của nền văn hóa đặc sắc. Đó là vốn quý để sản làm ra có giá trị cao và mang tính đơn chiếc. Tính đơn chiếc khiến cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ khác biệt và có sắc thái riêng của mỗi làng nghề. Cùng là gốm sứ nhưng người ta có thể dễ dàng phân biệt được các loại gốm sứ giữa các làng nghề với nhau như: gốm sứ Bát Tràng, gốm sứ Thổ Hà, gốm sứ Phù Lãng…hay các sản phẩm Thủ công mỹ nghệ giữa các quốc gia khác nhau cũng khác nhau, mỗi sản phẩm ở các quốc gia khác nhau mang đậm tính văn hóa khác nhau. Đây chính là lợi thế cạnh tranh của hàng Thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều có sự đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng tùy theo sự sáng tạo, tay nghề của các nghệ nhân và phong tục tập quán của từng làng nghề, mang lại sự thỏa mãn và sức hấp dẫn cho người tiêu dùng đồng thời ảnh hưởng đến sự đồng đều của chất lượng sản phẩm. - Tính văn hóa: Thủ công mỹ nghệ là sản phẩm có từ lâu đời, tồn tại và phát triển trong các làng nghề truyền thống, được làm ra từ các thợ thủ công hay các nghệ nhân. Mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều được tạo ra trong một làng nghề nhất định, mang sắc thái của một khu vực địa lý và của một cộng đồng dân cư đó với những điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán xã hội khác nhau nên đã hình thành nhiều ý tưởng, kiểu dáng loại sản phẩm khác nhau. Thông qua tiêu dùng sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ khách hàng có thể cùng lúc thỏa mãn hai mục đích: “dùng” và “chơi”. Khách hàng khi tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ có xu hướng tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa nhu cầu tiêu dùng và và cảm nhận được giá trị nghệ thuật của sản phẩm từ sáng tạo trong tạo dáng, sự khác biệt của từng loại sản phẩm, sự tinh xảo và điêu luyện của người thợ và hơn cả là sự kết tinh những nét văn hóa của dân tộc được truyền vào từng sản phẩm. Do đó việc nắm bắt xu hướng tiêu dùng của khách hàng sẽ giúp làng nghề có cơ hội để định hướng tập trung sản phẩm của mình cho phù hợp với đòi hỏi của các nhóm khách hàng tiêu dùng khác nhau. Theo nghiên cứu của Ủy ban Thương mại Quốc tế thì khách hàng khi sở hữu một thứ hàng thủ công mỹ nghệ nào đó, họ thường nghĩ chính mình đang nắm giữ một biểu tượng minh chứng đặc trưng cho nền văn hóa truyền thống của một dân tộc hay một địa phương, nơi sản xuất ra hàng thủ công mỹ nghệ đó. Chính vì vậy hàng TCMN mang tính văn hóa cao. - Tính mỹ thuật: Một đặc trưng rất dễ dàng nhận biết từ hàng thủ công mỹ nghệ là tính mỹ thuật. Mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, đậm đà bản sắc dân tộc và mỗi sản phẩm có thể nói là đều mang linh hồn đất Việt. Khác với những sản phẩm công nghiệp khác được sản xuất bằng nhiều loại máy móc hiện đại thì hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị cao là vì sản phầm mang tính thủ công và chủ yếu là dựa vào đôi bàn tay khéo léo trong tạo dáng, sự tinh sảo và điêu luyện của người thợ kết tinh trong từng sản phẩm đó. Chính và đặc tính thủ công này đã tạo nên sự khác biệt và cho dù là không sánh kịp tính ứng dụng của những sản phẩm công nghiệp nhưng sản phẩm thủ công mỹ nghệ luôn gây được sự yêu thích của người tiêu dùng. Những sản phẩm như trống đồng Ngọc Lũ, phật nghìn mắt nghìn tay, sản phẩm thêu ren hay những bộ gốm sứ cao cấp…là những minh chứng cho đời sống linh hoạt, cảnh quan thiên nhiên và phong tục tập quán của dân tộc ta trong từng thời kỳ lịch sử. - Tính chất thủ công: Công nghệ sản xuất ra những sản phẩm này chính là sự kết giao giữa các phương pháp thủ công tinh xảo và sự sáng tạo nghệ thuật, tạo nên sự khác biệt giữa sản phẩm thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm công nghiệp hiện đại được tạo ra hàng loạt nhờ những máy móc hiện đại ngày nay. Tuy nhiên đây cũng là đặc điểm làm cho hàng thủ công mỹ nghệ ngày nay càng được sự yêu thích hơn của người tiêu dùng. b) Đặc điểm cơ bản của từng loại hàng thủ công mỹ nghệ chính ở Việt Nam. * Hàng gốm sứ: Gốm là loại hàng hoá rất phổ biến trong cuộc sống của mọi tầng lớp dân cư Việt Nam. Nghề gốm sứ Việt Nam đã có từ lâu đời, và được sản xuất ở khắp nhiều miền trong cả nước. Điển hình như ở Miền Bắc có gốm sứ Bát Tràng ở Hà Nội, gốm Đông Triều ở Quảng Ninh,làng Cậy (Hải Dương), Hương Canh, Hiến Lễ (Vĩnh Phú), gốm Phù Lãng- Bắc Ninh, hay gốm Thổ Hà ở Bắc Giang…vào đến Miền Nam thì có gốm Sài Gòn, gốm Bình Dương…là những làng nghề rất nổi tiếng từ trước đến nay. Cho đến ngày nay, nghề gốm Việt Nam ngày càng được phát triển phong phú và đa dạng hơn về kích cỡ, chủng loại khác nhau, những sản phẩm nổi tiếng như: những sản phẩm có thể dùng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày (bát, đĩa, ấm chén, nồi…), những sản phẩm dùng trong xây dựng như (chân sứ, vật cách điện…), hay dùng làm đồ thờ (bát hương, tượng, lọ hoa…), tranh tượng và đồ lưu niệm…Những sản phẩm đó được trang trí bởi rất nhiều màu men nhưng phổ biến là các màu men được ưa chuộng như: men ngọc, men vàng nhẹ, men chảy và được kết hợp với các hoạ tiết gắn liền với những nét quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày như: mái chùa, cây đa, cổng làng, hoa sen, thiếu nữ gẩy đàn… * Hàng mây tre đan, hàng cói. Đây là những sản phẩm rất độc đáo được làm từ các nguyên liệu từ cây tre, cây mây, cây song là những loại cây đặc sản của miền nhiệt đới. Từ lâu rồi các nghệ nhân đã tạo ra rất nhiều sản phẩm từ những nguyên liệu này như: giường, bàn, ghế, lãng hoa, đồ lưu niệm…Hàng mây tre đan được phát triển trong cả nước với những làng nghề nổi tiếng như: làng Phú Vinh – Hà Tây, Ngọc Động- Hà Nam, Thượng Hiền- Thái Bình, Vĩnh Ba- Phú Yên, Yên Sở- Hà Tây, Nho Quan- Ninh Bình… Ngoài ra, hàng cói cũng rất nổi tiếng với các địa danh như: làng Tân Lễ- Thái Bình, Kim Sơn – Ninh Bình, Nga Sơn – Thanh Hoá… * Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ Loại hàng này đã xuất hiện từ lâu đời và đã đạt đến trình độ chất lượng khá cao, là đồ dùng thông dụng khắp mọi nơi. Người Việt Nam nước ta dùng sản phẩm đồ gỗ để làm giường tủ, bàn, ghế hay tranh gỗ, ngai, tượng, bàn thờ, ống hương… Chạm khắc gỗ nổi tiếng ở nước ta có làng Phù Khê, Hương Mạc, Đồng Kị, Đồng Quan (Bắc Ninh), Bích Chu (Vĩnh Phú), Vân Hà (Hà Nội), Lý Nhâm (Hà Nam), La Xuyên (Nam Định), Mỹ Xuyên (Huế)… * Hàng dệt: Kỹ thuật dệt vải bông gai tơ tằm có từ thời Hùng Vương, cho đến bây giờ ở Việt Nam đã có rất nhiều những làng nghề nổi tiếng như: Tương Giang- Bắc Ninh, Vạn phúc- Hà Tây, Ninh Giang- Ninh Bình…Hàng dệt rất phong phú và thường được làm ra từ những đôi bàn tay khéo léo của phái đẹp nước ta nên nó thường được dùng để chăm sóc cho sắc đẹp và mang đậm bản sắc dân tộc (bản sắc của phụ nữ Phương Đông) và cho đến nay tuy bị chèn ép bởi sức cạnh tranh của rất nhiều những mặt hàng được làm ra từ máy móc và công nghệ hiện đại nhưng hàng dệt Việt Nam truyền thống vẫn được ưa chuộng một khi kết hợp với các nghề thêu ren với chất liệu bản địa (tơ lụa). Mặt hàng thêu ren cũng là mặt hàng rất được để ý hiện nay ở nước ta. Là mặt hàng cũng có từ rất lâu và rất đa dạng về mẫu mã và kiểu dáng như: rồng, phượng, hoa sen, phong cảnh chân dung…với những chất liệu, màu sắc, và ý nghĩa khác nhau * Hàng sơn mài: Ở Việt Nam nổi tiếng với cây sơn trồng ở đất Phú Thọ và rất có giá trị. Nhựa cây sơn Phú Thọ tốt hơn hẳn nhựa sơn trồng ở nơi khác, là nguồn nguyên liệu đặc biệt quý giá. Chính vì vậy hàng sơn mài Việt Nam nổi tiếng bền và đẹp. Ban đầu sơn mài chỉ có bốn màu: đen, đỏ, vàng, nâu, dần cho đến nay bảng màu của sơn mài ngày càng phong phú, lộng lẫy và sâu thẳm với những sản phẩm như: tranh treo tường, lọ đựng hoa, bình phong… * Hàng đồng, đá, chạm, khắc: Đây là hàng hóa được làm ra từ một quy trình rất phức tạp, tỉ mỉ và qua rất nhiều công đoạn. Một số sản phẩm được làm ra như: hộp, khay, bàn cờ, mặt bàn, tranh treo tường…hay những sản phẩm được làm từ khối đá cẩm thạch, qua trạm khắc đã trở thành những vòng đeo tay, gạt tàn thuốc lá, tượng phật…Ở Việt Nam có những làng nghề như làng Quan Khải, Hóa Khê dưới chân núi Ngũ Hành Sơn là rất nổi tiếng với nghề chạm khắc đá truyền thống. * Kim khí mỹ nghệ: Từ lâu rồi con người đã biết dùng kim loại để làm đồ trang sức và cho đến ngày nay thì ở Việt Nam cũng như ở tất cả các nước trên thế giới đều sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm trang sức từ kim loại như: Vàng, bạc. Các sản phẩm được tạo ra rất đa dạng như: Nhẫn, vòng tay, dây truyền, hoa tai…Riêng ở Việt Nam, các hàng hóa làm từ vàng được bắt nguồn từ làng Định Công (Hà Nội), nghề bạc bắt nguồn từ làng Đồng Xâm ( Thái Bình). Hiện nay, đây là ngành hàng rất phát triển và có tiềm năng rất lớn có thể đánh giá được tiềm lực của nước xuất khẩu mặt hàng này. Ngoài ra có một số sản phẩm trên thì ở Việt Nam còn phát triển ngành giấy thủ công, các mặt hàng thổ cẩm …cũng là những ngành nghề có từ lâu đời và phát triển cho đến bây giờ. 1.1.2.Tình hình xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam. 1.1.2.1. Các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam a) Những làng nghề có xu hướng phát triển mạnh. Những làng nghề có xu hướng phát triển mạnh thường phải là những làng nghề có nhiều ưu thế trong việc bảo đảm và cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào và có nhu cầu thị trường ổn định. Ở Việt Nam thì những làng nghề như làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm (đặc biệt là chế biến nông sản), chế biến gỗ, mây tre đan, chạm khảm…là những làng nghề khá phát triển từ trước tới nay. Những làng nghề này có đặc điểm chung là có đội ngũ lao động trong nghề co tay nghề khá cao, có khả năng sản xuất sản phẩm có độ tinh xảo, độc đáo và có độ nhanh nhậy về thị trường và mẫu mã hàng hóa, có nhiều bí quyết nghề nghiệp, bí quyết kỹ thuật và nghệ thuật cho phép họ có khả năng cạnh tranh hơn. b) Những làng nghề phát triển không ổn định. Ngược với các làng nghề thuộc nhóm những làng nghề có xu hướng phát triển mạnh ở trên, thì các làng nghề này thường sản xuất những sản phẩm mà nhu cầu có sự biến đổi khá nhanh và biến động lớn, tuy nhiên khả năng cải tiến lại, đổi mới, đa dạng hoá sản phẩm, thay đổi công nghệ lại rất chậm và tương đối khó khăn. Sản phẩm của những làng nghề này chủ yếu phục vụ đối tượng tiêu dùng hạn chế, thường là hàng đặc dụng - thường nằm trong nhóm nghề dệt, may, sản xuất giấy, đèn đúc đồng… Những làng nghề thuộc loại này thường có đặc điểm chính là sản phẩm được làm ra từ những người thợ tay nghề cao và có thể làm ra một số sản phẩm cao cấp nhất định đạt tới mức hoàn mỹ và rất bài bản. Tuy nhiên, số lượng hàng tiêu thụ còn ít và chậm do giá thành sản xuất cao và có sản phẩm thay thế lớn. c) Những làng nghề bị suy vong và có khả năng mất đi. Những làng nghề thuộc loại này là những làng nghề đã từng có thời gian hoàng kim trong sản xuất và kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ này, song đã bị suy thoái từ lâu do nhiều nguyên nhân mà cho đến nay chưa hé mở nhu cầu tiêu thụ trên thị trường đối với các loại sản phẩm này. Biểu hiện tiêu biểu cho loại làng nghề này là những làng nghề như: Những làng nghề làm giấy sắc, dệt quai thao ở Hà Nội, làng tranh dân gian ở Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tây…nghề khâu áo dài tứ thân ở Hà Tây, Hà Tây… Nguyên nhân gây lên sự suy sụp của các làng nghề trên là rất nhiều, tuy nhiên một số nguyên nhân chính như: Nhu cầu thị trường biến động: Điều này tác động trực tiếp đến các làng nghề truyền thống. Nó đòi hỏi sự thích ứng của nền sản xuất kinh doanh từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường và chấp nhận cạnh tranh trên thị trường đó. Vấn đề nhu cầu về sản phẩm do những làng nghề này sản xuất và khả năng thích ứng với thị trường biến đổi bằng việc đa dạng hoá và đổi mới sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng…có vai trò rất quan trọng, quyết định sự tồn tại của những làng nghề và những làng nghề nào thích ứng được điều này thì sẽ phát triển một cách nhanh chóng. Việc ban hành chính sách của nhà nước và việc thực thi chính sách này chưa đồng bộ. Nhà nước tạo ra môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, các làng nghề bằng cách ban hành những chính sách hay các văn bản pháp luật…và từ đó các làng nghề có những điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển. Các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam không chỉ có lợi thế mà còn có vận hội mới để phát triển. Tuy vậy, vẫn còn có những tồn tại như: + Chính sách của nhà nước ban hành rất nhiều nhưng chưa đầy đủ đối với các làng nghề truyền thống. Hơn nữa, các chính sách này chưa đi sâu vào cuộc sống nhất là các làng nghề . Việc tuyên truyền, phổ biến chính sách trong nhân dân các vùng nông thôn luôn còn nhiều hạn chế, do đó chưa tạo được hành lang pháp lý cần thiết cho người sản xuất và kinh doanh các loại sản phẩm mang tính nghệ thuật cao này. + Một số quy định và chính sách chưa hợp lý: đánh đồng mặt hàng thủ công mỹ nghệ với các mặt hàng công nghiệp khác về mức thuế suất, chưa có chế độ trợ giá, bảo hộ mậu dịch, vay vốn cho các làng nghề, hay cho các thợ thủ công. Còn rất ít những chính sách đãi ngộ cần thiết cho các nghệ nhân, nghệ sĩ nổi tiếng, có cống hiến lớn lao… + Khó khăn trong chính sách mở cửa, giaolưu hàng hoá làm hàng nước ngoài tràn ngập vào thị trường Việt Nam, bằng nhiều cách khác nhau làm cho mặt hàng thủ công trong nước chịu sức ép nặng của cạnh tranh. - Cơ sở hạ tầng còn yếu kém và trình độ kỹ thuật công nghệ còn rất thô sơ và ít được cải tiến là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhiều làng nghề chậm được mở rộng, ít có doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Hệ thống đường giao thông và mặt bằng để xây dựng lò, xưởng sản xuất có vị trí quan trọng đã được nhiều làng nghề chú ý đến song nhiều nơi còn chưa làm được do chi phí cao. Chính vì thế, các làng nghề gặp không ít những khó khăn và trở ngại cho việc đi lại và việc sản xuất. d) Những làng nghề gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn có cơ hội phát triển. Những làng nghề này cũng từng có thời gian phồn thịnh, làm ra nhiều hàng hoá đưa vào thị trường tiêu thụ và đã từng tiêu thụ được một số lượng hàng hoá rất lớn. Tuy nhiên, nhu cầu thị trường về mặt hàng này bỗng nhiên thay đổi một cách đột ngột làm cho hình thành nhiều bất lợi cho người sản xuất, nguyên liệu đầu vào khan hiếm và hàng làm ra tiêu thụ được rất ít. Các làng nghề thuộc nhóm này như: sản xuất giấy gió ở Hà Tây, Hà Bắc; gò đúc và cẩn đồng ở Hà Bắc, Hà Nội, Huế,… dệt thổ cẩm Chăm ở Quảng Nam- Đà Nẵng… 1.1.2.2. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam trong những năm gần đây. Theo thống kê của hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến rõ rệt là phục hồi và tăng khá nhanh. Nếu như năm 1998, do khủng hoảng tài chính kinh tế khu vực, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chỉ đạt 111 triệu USD thì từ năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã tăng lên rất nhiều. Cụ thể là từ năm 1999 đến năm 2004 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này ở nước ta đã tăng từ 168,28 triệu USD lên 398,13 triệu USD, như vậy đã tăng 229.85 triệu USD nghĩa là tăng hơn gấp hai lần trong vòng 5 năm. Điều này là do trong những năm gần đây thị hiếu của người tiêu dùng đang có xu hướng hướng tới những sản phẩm mang đậm nét dân tộc. Chính vì vậy, càng ngày kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang các thị trường nước ngoài trên thế giới càng tăng. Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này là 607,5 triệu USD, đến năm 2007 thì kim ngạch này đã được tăng lên 19% và đạt 750 triệu USD. Dưới đây là bảng thể hiện kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam giai đoạn 1999- 2007: Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam giai đoạn 1999- 2007 Năm Giá trị XK hàng TCMN (tr. USD) Tổng giá trị XK cả nước (tr. USD) Tỷ trọng kim ngạch XK hàng TCMN/TKNXK(%) 1999 168.28 14520.2 1.46 2000 227.44 14448.7 1.57 2001 229.94 15027.3 1.53 2002 334.69 16705.9 2.00 2003 361.24 20176.1 1.79 2004 398.13 26003.00 1.53 2005 560 30850.00 1.81 2006 630.4 39600.00 1.59 2007 750 47540.00 1.58 Nguồn: Vụ XNK- Bộ Thương Mại Qua bảng 1 trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong thời gian qua tăng lên một cách đều đặn. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước nói chung có xu hướng tăng lên cho đến năm 2002 tuy nhiên lại bị giảm xuống trong những năm về sau. Điều này là do Việt Nam đã mở rộng được thêm nhiều thị trường mới trong khu vực thị trường Châu Á- Thái Bình Dương. Tuy nhiên, tỷ trọng một số năm gần đây bị giảm xuống là do tỷ trọng xuất khẩu của các ngành công nghiệp dịch vụ khác tăng lên một cách mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng hàng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ qua các năm cũng có chiều hướng tăng nhưng vẫn còn chậm. Tốc độ tăng trưởng chậm là do hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta vẫn chưa khắc phục được đó là hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm trang trí nên ngoài những đòi hỏi về tính tiện dụng còn có yêu cầu rất cao về tính độc đáo trong kiều dáng và mẫu mã.Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của nước ta đã có tiến bộ rất nhiều về mẫu mã, hình dáng và chất lượng sản phẩm, tuy nhiên chưa thỏa mãn được đúng yêu cầu của khách hàng và đôi khi sản phẩm còn quá đơn điệu và chất lượng không đồng đều. Nguyên liệu khai thác chưa được tốt và nhiều khi còn bị động bởi sự thay đổi của thiên nhiên làm ảnh hưởng đến sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ cho xuất khẩu. Hơn nữa, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta còn phân tán làm cho khâu hoàn thiện sản phẩm trở nên không đều, dễ bị lẫn lộn tốt xấu, hoạt động sản xuất mang tính tự phát, thiếu sự tổ chức hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp lớn là nguyên nhân làm cho tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giảm xuống. Tuy vậy, hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta ngày càng được cải thiện hơn. Các làng nghề liên tục cho ra đời những sản phẩm độc đáo, đa dạng về mẫu mã, chủng loại, phong phú về màu sắc …điều đó đã làm cho khả năng cạnh tranh với đối thủ khác được dễ dàng hơn. Chính vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt ở khắp nhiều nơi trên thế giới. Các thị trường truyền thống và thị trường mục tiêu nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ngày càng được củng cố và mở rộng hơn. Thời kỳ hoàng kim._. của hàng thủ công mỹ nghệ là giai đoạn 1975 đến 1986. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 40%, cao điểm đạt 53,4% (năm 1979). Giai đoạn trước 1990, thị trường chủ yếu là khối các nước Đông Âu, Liên Xô theo những thỏa thuận song phương. Sau 1990, thị trường này suy giảm bởi những biến động chính trị (năm 2000 chỉ đạt 40 triệu USD). Từ sau năm 2000, thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga và nhiều nước ASEAN, do những nỗ lực tìm kiếm thị trường. Trong đó, EU chiếm 50% giá trị xuất khẩu, Nhật Bản được xem là thị trường chính ở Châu Á, với 5% tỷ trọng. Mỹ là thị trường đầy triển vọng. Số các nước nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, từ 50 năm 1996, tăng lên 133 nước vào năm 2005; và hiện nay, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Theo một con số thống kê gần đây, giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ chính yếu qua các năm từ 2000 đến 2006 như sau: 2000 đạt 235 (triệu USD), 2001 đạt 235, 2002 đạt 331, 2003 đạt 367, năm 2004 đạt 450, năm 2005 đạt 560 và 630,4 vào năm 2006. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này là 17,87%.Với thị trường EU ta xuất khẩu mặt hàng chính là gỗ, trong đó, Đức, Pháp, Hà Lan đã chiếm 10% tổng hàng hóa nhập khẩu. Tỷ lệ tăng trưởng trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 21,28%, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,8%. Thị trường Nhật Bản: kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này là 3,79 triệu USD năm 2004 (tăng 16,6% so với 2003). Khách hàng Nhật rất ưa thích mặt hàng gỗ và số lượng khách du lịch cũng gia tăng. Hiện có nhiều công ty Việt Nam sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Ngoài ra, thị trường Nam Phi cũng tăng trưởng với nhiều triển vọng khi nhiều Cty Việt Nam đang tiến hành nhiều hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Nam Phi. Theo TS. Nguyễn Văn Sánh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển ĐBSCL thì: "Người Việt vốn có tập quán sử dụng hàng thủ công mỹ nghệ từ lâu đời. Do đó, khi có thu nhập cao, hành vi tiêu dùng sẽ theo xu hướng sử dụng những hàng hóa có nguồn gốc nguyên liệu từ thiên nhiên và từ các nghề truyền thống". Tuy nhiên, mặc dù đã và đang có những đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cũng như nhiều lợi ích kinh tế xã hội khác, ngành hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề truyền thống vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển và mở rộng thị trường. Thị trường nội địa có sức mua yếu, trong khi kinh nghiệm thị trường quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Mặt khác, ngành hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề truyền thống Việt Nam hiện tại còn thiếu tính liên kết giữa khoa học và mỹ thuật học với việc chế tạo, sản xuất sản phẩm. 1.1.1.3. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua. Việt Nam có quan hệ thương mại với các nước thành viên EU từ rất sớm, nhưng mãi đến ngày 22/10/1990, Việt Nam và Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Việt Nam xuất khẩu sang EU chủ yếu là các mặt hàng: Giầy dép, quần áo, thực phẩm (nông sản, thủy sản), hàng thủ công mỹ nghệ…Từ năm 2000 đến nay, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu được 100 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ (gồm sứ, mây tre, gỗ mỹ nghệ) sang EU. Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được ưa chuộng ở thị trường Đông và Tây Âu. Trong những sau đấy, nhóm hàng này được đẩy mạnh sang thị trường EU và tiếp tục được nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã bao bì phù hợp với thị hiếu của thị trường này. Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam sang EU Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN 361.24 398.13 565 630.4 750 Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN sang EU 179.7 200 275 378 458.5 Nguồn: Bộ Thương Mại EU là khu vực thị trường có nhiều triển vọng cho xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, và từ năm 2000 trở lại đây thị trường EU chiếm khoảng 50% giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Nước ta xuất khẩu sang thị trường EU các mặt hàng chính là gỗ, trong đó, Đức, Pháp, Hà Lan đã chiếm 10% tổng hàng hóa nhập khẩu. Qua bảng trên ta thấy được sự tăng lên rõ rệt của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta sang thị trường EU. Cụ thể là từ năm 2003, kim ngạch mới chỉ đạt 179.7 triệu USD, đến năm 2004 thì kim ngạch đó tăng lên là 200 triệu USD, năm 2005 đạt 275 triệu USD- chiếm 5,4% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này. Năm 2006, v ới kim ng ạch l à 378 tri ệu USD Việt Nam xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Pháp đạt 81,8 triệu USD; Đức đạt 62,5 triệu USD; Bỉ đạt 36 triệu USD; Anh 21,4 triệu USD; Hà Lan 18,9 triệu USD; Italia 16,2 triệu USD; Tây Ban Nha 18,8 triệu USD... Theo nhận định của Bộ Thương mại, trong tương lai, đây là khu vực thị trường có khả năng tiêu thụ mạnh nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Vì vậy, mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ nâng tỷ lệ này lên trên 6,4% (đạt kim ngạch trên 0,6 tỷ USD). Riêng năm 2007 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU đạt 458.5 triệu USD tăng 21.3% so với năm 2006 Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong khối Liên Minh Châu Âu (EU) là: thị trường xuất khẩu hàng TCMN lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là thị trường Đức (26.4%), tiếp đến là Pháp(14,7%), Hà Lan (11.6%), Anh(11%), Bỉ(10.7%), Ý(7,4%), Tây Ban Nha(6.3%), Thụy Điển (5%), còn lại là một số thị trường như: Đan Mạch, Phần Lan, Hy Lạp…Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu xủa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU như: hàng gốm sứ, hàng mây tre đan, hàng sơn mài, đồ gỗ mỹ nghệ, hàng thêu ren, thổ cẩm và thảm các loại. Trong các sản phẩm đó thì sản phẩm gỗ mỹ nghệ và sơn mài là những sản phẩm thâm nhập rất tốt vào thị trường EU và có kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường EU. Hàng gốm, sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang tiêu thụ mạnh sang thị trường EU, các mặt hàng khác cũng dần dần được xuất khẩu sang thị trường EU với số lượng lớn. Tuy nhiên, hàng thủ công mỹ nghệ nước ta khi xuất khẩu sang thị trường EU cũng có nhiều những đối thủ cạnh tranh mạnh như hàng của Trung Quốc và của các nước ASEAN khác. Hơn nữa EU là thị trường rất khó tính đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm và đặt ra nhiều tiêu chuẩn khá khắt khe cũng là một thử thách trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Trong xu thế hội nhập quốc tế, nước ta đang chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh nội lực cạnh tranh và sản phẩm thủ công mỹ nghệ chắc chắn là sản phẩm có nội lực cạnh tranh của Việt Nam trong tương lai. 1.1.3.Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN ở Việt Nam. 1.1.3.1.Nhu cầu đối với hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới. Thị trường của các loại sản phẩm này ngày càng được mở rộng cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Khách hàng các nước khác thường tìm kiếm nguồn gốc Á Đông với những sản phẩm từ chính bàn tay lao động thủ công của những người thợ tạo nên từ những nguyên liệu thiên nhiên sẵn có trong nước là chủ yếu. Trong thời gian gần đây thị trường nước ngoài của một số mặt hàng truyền thống ngày càng mở rộng do xu hướng tiêu dùng mở rộng và có tiềm năng rất lớn như gốm sứ, gỗ,mây tre đan, thêu ren, thổ cẩm…Các khách nước ngoài vào du lịch Việt Nam càng tăng, họ tham quan và mua hàng là một cơ hội cho các làng nghề Việt Nam có cơ hội để thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo hình thức xuất khẩu tại chỗ.Đó là một thế mạnh của Việt Nam cần được phát huy và cần được hỗ trợ để phát triển cho việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống ở Việt Nam. Hàng TCMN của Việt Nam mặc dù chiếm được nhiều ưu thế trong xuất khẩu, nhưng vấn đề đặt ra bây giờ là làm thế nào để chiếm giữ thị trường xuất khẩu. Theo nghiên cứu thị trường, nhu cầu của một số thị trường lớn về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam như sau: Nhu cầu của thị trường Hoa Kỳ nghiên cứu cho đến năm 2010 là khoảng 400 triệu USD hàng TCMN của Việt Nam, với thị trường EU thì nhu cầu hàng TCMN này cao hơn với con số 600 triệu USD năm 2010. Đặc biệt hơn với thị trường Nhật Bản là thị trường được xếp thứ hạng cao trong số những thị trường xuất khẩu của Việt Nam, là thị trường có nhiều tiềm năng tăng trưởng hứa hẹn trong tương lai. Kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản mỗi năm khoảng 54 triệu USD/ năm, chiếm 3% kim ngạch nhập khẩu hàng TCMN của Nhật Bản. Đó là một số thị trường có tiềm năng lớn để Việt Nam có thể xuất khẩu hàng TCMN sang, và dựa vào những con số này, Việt Nam sẽ phải cố gắng nhiều hơn để phát triển xuất khẩu hàng TCMN. 1.1.3.2.Tiềm năng của Việt Nam trong việc sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. * Tiềm năng về lao động. Việt Nam là nước có nguồn lao động trẻ, rất dồi dào và có tri thức, có khả năng tiếp thu nhanh thêm với cần cù, sáng tạo và có tính cộng đồng cao. Đó là ưu điểm lớn nhất của lao động ở Việt Nam. Mặt khác trong các làng nghề sản xuất những mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở nước ta lại có những nghệ nhân hay những người thợ rất giỏi, có khả năng tiếp nối truyền thống và rất tâm huyết với nghề, có ý thức và tinh thần trách nhiệm đào tạo rất cao trong việc truyền lại nghề và những kiến thức cần có cho thế hệ trẻ. Như vậy, có thể nói tiềm năng về lao động là tiềm năng lớn của Việt Nam trong việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. * Tiềm năng về nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Nguyên liệu để sản xuất ra hàng thủ công mỹ nghệ thường là những nguyên liệu có được từ thiên nhiên như: đá, cói ,mây, tre, đất, cói…Và ở Việt Nam thì những nguyên liệu này là rất sẵn có và do đó nguyên vật liệu để cung cấp cho sản xuất là vô cùng phong phú và đa dạng. Hơn nữa, nhu cầu nguyên liệu phụ liệu, phụ liệu nhập khẩu để cung cấp cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chiếm một tỷ lệ rất ít và thường chỉ từ 3- 5%. Đây là một thuận lợi rất lớn để từ đó hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trên thị trường thế giới. * Tiềm năng sản xuất và tính bền vững Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khi đạt tới trình độ hoàn mỹ thì có thể phát triển rất tốt và có khả năng mở rộng quy mô và đứng vững trên thị trường. Điều đó được khẳng định trong thực tế đặc biệt là từ khi Việt Nam thực hiện nền kinh tế mở, điều kiện sản xuất kinh doanh được cải thiện và các sản phẩm sản xuất ra được đặt trong môi trường cạnh tranh rất gay gắt. Qua một thời kỳ phát triển khá dài các hình thức sản xuất và các quan hệ kinh tế mới xuất hiện và khá phù hợp với quy luật vận động của nền kinh tế thị trường. Bản thân mặt hàng thủ công mỹ nghệ tồn tại với lý do sâu xa (được lịch sử công nhận) và đứng vững trong điều kiện mới khi thu nhập từ sản xuất những mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhiều gấp nhiều lần so với sản xuất nông nghiệp và sự phát triển của chúng rất phù hợp với quy luật phát triển kinh tế tiến bộ. Đưa ra chủ trương khôi phục nghề truyền thống, nhà nước đã có rất nhiều chương trình hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền thống. Tiềm năng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam là điều kiện tốt đối với việc xuất khẩu mặt hàng này của công ty ARTEX Thăng Long. 1.1.3.3.Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế đang bước đầu phát triển nên cơ sở vật chất kỹ thuật đã được cải thiện nhưng vẫn còn rất yếu kém và thiếu thốn, lao động Việt Nam vẫn rơi vào tình trạng dư thừa. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nước ta, trong việc thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, giải quyết công an việc làm. Có thể nói xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội nước ta. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh của Việt Nam, và có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế, Thứ nhất, phát triển sản xuất và mang xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã góp phần giảm thiểu được tỷ lệ thất nghiệp. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối với nước ta, một nước nông nghiệp với hơn 70% người dân sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Những lao động trong nghề lao động là những lao động phổ thông là chủ yếu, chưa được qua đào tạo, trong khi ngành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ lại không cần những người thợ đòi hỏi trình độ cao, mà đòi hỏi sự cần cù, chăm chỉ và khéo léo. Như vậy, phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ giúp được Việt Nam hạn chế được lao động nông dân từ nông thôn ra thành phố kiếm việc làm. Hai là, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có một đặc điểm là không đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn. Nguyên liệu để sản xuất ra hàng thủ công mỹ nghệ có nguồn gốc từ thiên nhiên là chủ yếu mà sẵn có ở nước ta một nước nhiệt đới, tài nguyên phong phú. Vì vậy, phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ giúp nước ta khai thác được tối đa nguồn nguyên liệu tự nhiên sẵn có trong nước. tức là giúp khai thác được tối đa lợi thế so sánh của mình, kéo theo các ngành nghề khác phát triển. Đây là một cơ hội tốt cho sự phát triển sản xuất của nước ta trong nền kinh tế thị trường eo hẹp này. Ba là, sự phát triển của các làng nghề, các cơ sở sản xuất hàng TCMN trong những năm qua đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp – dịch vụ, giảm cơ cấu ngành nông – lâm ngư nghiệp, góp phần phân bố lực lượng lao động hợp lý. Sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ đã phá thế thuần nông, tạo đà cho công nghiệp phát triển thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Bốn là, phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giúp chúng ta giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, giới thiệu tinh hoa và bản sắc dân tộc Việt Nam với thế giới, là do hàng thủ công mỹ nghệ là thứ hàng mà bản thân nó đã chứa đựng bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là một nghề truyền thống được lưu từ đời này qua đời khác và mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều là một tác phẩm nghệ thuật, được làm từ đôi bàn tay kỳ diệu của người thợ thủ công, những nghệ nhân. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là gián tiếp giới thiệu với bạn bè thế giới về lịch sử, phong tục, văn hóa của dân tộc Việt Nam ngay cả với những người chưa từng đặt chân tới Việt Nam cũng có thể biết được về Việt Nam thông qua những tác phẩm nghệ thuật này. Do đó, phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, ngoài giá trị thương mai, chúng ta còn phải hết sức chăm chút đến giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật của từng sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Năm là, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đã góp phần không nhỏ vào việc tăng tổng giá trị sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ làm tăng thu ngoại tệ cho đất nước, từ đó góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Đó là do hàng năm kim ngạch thu được từ hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khá cao và hiệu quả kinh tế lớn. Đây là một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. 1.1.3.4.Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với công ty ARTEX Thăng Long. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không những có ý nghĩa to lớn với nước ta nói chung mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty ARTEX Thăng Long. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ này được công ty xuất khẩu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới và khách hàng đặc biệt rất ưa chuộng. Công ty ARTEX Thăng Long đã lấy chức năng kinh doanh xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ làm hoạt động chính mang lại lợi nhuận và quảng bá hình ảnh của Công ty. Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với công ty ARTEX Thăng Long như sau: - Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tạo nguồn ngoại tệ cho doanh nghiệp, tăng dự trữ ngoại tệ, mang lại lợi nhuận chính cho công ty. Từ đó, giúp công ty có thể tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại…trong điều kiện nền kinh tế thị trường sẽ góp phần đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước một cách tự giác, mở rộng quan hệ kinh tế, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có, giải quyết công an việc làm cho người lao động đặc biệt là cho lao động ở nông thôn. - Từ việc thực hiện xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có thể phát huy cao độ tính năng động và sáng tạo của cán bộ nhân viên trong công ty cụ thể là ở từng các phòng ban, các bộ phận trong công ty. - Phát triển hàng thủ công mỹ nghệ sẽ dẫn đến cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau giữa các thành phần tham gia kinh doanh mặt hàng này trên thị trường cả trong và ngoài nước. Từ đó có thể làm tăng chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Thông qua xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, công ty có khả năng phát huy được lợi thế của mình, có điều kiện để tiếp xúc, học hỏi các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại để cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ. Các sản phẩm xuất khẩu sẽ không chỉ được những người tiêu thụ trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị trường nước ngoài. Như vậy, nếu công ty thực hiện tốt công tác thâm nhập thị trường, đẩy mạnh marketing quốc tế vào xuất khẩu thì đây là cơ hội mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty ARTEX Thăng Long. 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty ARTEX Thăng Long. 1.2.1.1 Quá trình hình thành của công ty xuất nhập khẩu Mỹ nghệ Thăng Long. Công ty XNK Mỹ nghệ Thăng Long có tiền thân là một xí nghiệp Thủ công mỹ nghệ XNK và dịch vụ ( được hợp nhất từ 2 xí nghiệp: Xí nghiệp Mỹ nghệ xuất khẩu và Xí nghiệp sản xuất gia công dịch vụ hàng xuất khẩu), ra đời ngày 4/7/1989 theo quyết định số 382/ KTĐN- TCCB của Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại. Tên viết tắt là ARTEXEN, theo phân cấp lúc đó thì ARTEXEN trực thuộc Tổng công ty XNK Mỹ nghệ ARTEXPORT. Theo quyết định số 899/KTĐN- TCCB của Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, vào ngày 10/04/1990, ARTEXEN được tách khỏi ARTEXPORT, trở thành một xí nghiệp sản xuất kinh doanh độc lập và trực thuộc Bộ Thương Mại và mang tên mới là xí nghiệp XNK Mỹ nghệ Thăng Long. Do thời gian này nước ta đang tiến hành thực hiện nền kinh tế thị trường với rất nhiều sự mới mẻ và khó khăn trước mắt. Tình hình hoạt động kinh doanh có nhiều thay đổi, cơ chế kinh tế khác biệt, để phù hợp với tình hình kinh doanh đó và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch với các đối tác nước ngoài, Bộ Thương Mại cho phép Xí nghiệp đổi thành công ty có tên là Công ty XNK Mỹ nghệ Thăng Long- Tên giao dịch quốc tế là ARTEX Thăng Long ( ngày 29/03/1993). Đến ngày 14 tháng 05 năm 2007, công ty được phòng Đăng ký kinh doanh của sở Kế hoạch Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh số 0103017209 theo quyết định số 2130/QĐ- BTM ngày 14/12/2006 và số 0393/QĐ- BTM ngày 09/03/2007 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại. Đến nay công ty đã được cổ phần thành công ty cổ phần xuất nhập khẩu Mỹ nghệ Thăng Long. Tên giao dịch là ARTEX Thăng Long. JSC Người đại diện trước pháp luật là ông Đào Đình Hải – Tổng giám đốc công ty. Là công ty cổ phần được thành lập theo hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Được thừa hưởng mọi quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công ty XNK mỹ nghệ Thăng Long. 1.2.1.2. Quá trình phát triển của công ty ARTEX Thăng Long. JSC. a) Giai đoạn từ khi hình thành 1989- đến năm 1990. Xí nghiệp xuất nhập khẩu Mỹ nghệ Thăng Long được thành lập ngày 4/7/1989 trên cơ sở sát nhập xí nghiệp Mỹ nghệ Hà Nội và bộ phận sản xuất phụ của Tổng công ty XNK Mỹ nghệ ( ARTEXPORT). Thời gian đó xí nghiệp có vốn đầu tư khoảng 200 triệu và lực lượng lao động có khoảng 100 người. Đây là giai đoạn công ty còn sản xuất hàng hóa XNK chủ yếu dựa vào chế độ bao cấp trên cơ sở thực hiện các hợp đồng sản xuất thu mua hàng xuất khẩu cho ARTEXPORT thực hiện xuất khẩu theo nghị định thư của nhà nước Việt Nam ký kết với các nước XHCN. Cho đến cuối năm 1989 công ty đã ký được rất nhiều hợp đồng xuất khẩu đổi hàng với liên đoàn dụng cụ gia đinh ODESA để đổi hàng thủ công mỹ nghệ lấy dụng cụ gia đình… Ngoài ra thời gian này công ty còn được hỗ trợ để phát triển hàng xuất khẩu là 4 triệu CR ( tương đương 680.000 USD) là một cơ hội cho sự phát triển của công ty. Có thể nói đây là thời kỳ hưng thịnh của công ty, với kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, công ty đã có lãi, cải thiện được đời sống của cán bộ công nhân viên và góp phần đầu tư vào sản xuất. b). Giai đoạn 1991-1995. Đây là giai đoạn gặp nhiều khó khăn của công ty. Do sự biến động về chính trị của các quốc gia Đông Âu đã khiến công ty bị mất thị trường xuất khẩu chính dẫn đến khủng hoảng đầu ra, thị trường không có, hoạt động kinh doanh bị ngưng trệ. Chiến tranh xảy ra ở Nam Tư và thay đổi chế độ chính trị ở Bungari làm cho hàng xuất khẩu theo hợp đồng hàng đổi hàng đi không thu được hàng nhập khẩu về, hơn nữa công ty lại không đòi được nợ từ hợp đồng đó, nên công ty đã phải vay ngân hàng một khoản nợ khá lớn 19 tỷ gốc và 10 tỷ lãi ( trích đến năm 1993 ) tại Ngân hàng Công thương Việt Nam, và trong tình hình đó công ty được nhà nước khoanh nợ 18 tỷ tại công văn số 2981/KHTH ngày 15/6/1993 vì nguyên nhân khách quan. Ngày 29/3/1993 Bộ Thương Mại và du lịch quyết định đổi tên xí nghiệp thành công ty xuất nhập khẩu Mỹ nghệ Thăng Long ( ARTEX Thăng Long), theo quyết định số 481/TM- TCCB. Lúc này lực lượng lao động của công ty vào khoảng 700 người và có tổng số vốn do nhà nước cấp là 5,9 tỷ đồng. Đây cũng là thời kỳ xóa bỏ cơ chế bao cấp khiến cho một số xưởng sản xuất của công ty không đủ sức tồn tại như: Sơn mài, mạ bạc, dệt thảm đay, dép đi trong nhà, sản phẩm thô và may mặc. Công ty đã bỏ ra một số lớn đầu tư kinh doanh liên doanh liên kết với nước ngoài và thành lập lên hai công ty là HIPC và ART SUN, nhưng liên doanh làm ăn không có hiệu quả. Từ đó công ty mất và thiếu vốn trầm trọng buộc phải vay ngân hàng đảo nợ, vay vốn cổ phần,…góp phần làm tăng chi phí lãi cho công ty. Lỗ lũy kế của công ty tính đến cuối năm 1996 là 13 tỷ đồng, phải thu khó đòi là 16 tỷ đồng. c) Giai đoạn 1996- 1999. Trong khoảng thời gian hai năm 1996-1997, công ty gặp nhiều thương vụ gây thiệt hại về tài chính, cộng thêm với khoản lỗ 18 tỷ đồng làm cho tình trang của công ty trở lên khủng hoảng rất nhiều. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng năm vẫn tăng nhưng do chi phí khá lớn nên công ty tiếp tục lỗ rất nhiều. Trước những thực trang đó của công ty, Bộ Thương Mại đã cho phép công ty thay đổi Ban lãnh đạo, sắp xếp lại tổ chức kinh doanh để thoát khỏi những khó khăn. Trước tiên là tiếp tục ổn định quá trình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả kinh doanh thông qua quy chế quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu và cơ chế quản lý lao động tiền lương. Sau đó là tăng cường kiểm tra đôn đốc, giám sát quá trình thực hiện các phương thức kinh doanh, sử dụng phương thức khoán trắng tới từng phòng nghiệp vụ kinh doanh, sau cùng là xin giảm nợ và giãn nợ ngân hàng… Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng được hoàn thiện hơn và đã có những chiều hướng phát triển khá rõ rệt khi bước sang những năm 1998-1999. Việc kinh doanh thua lỗ đã hết, công ty thực hiện được nhiều thương vụ, với nhiều bạn hàng nước ngoài và kí được nhiều hợp đồng với những nước đó như: các nước Châu Âu và Châu Á Thái Bình Dương. d). Giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Có thể nói đây là thời kỳ khởi sắc của công ty bởi vì hoạt động kinh doanh của công ty đã bắt đầu thu được lãi cao và an toàn hơn so với thời kỳ trước đó. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của công ty ngày càng tăng làm cho kim ngạch xuất khẩu của công ty cũng tăng lên theo đó. Về kim ngạch xuất khẩu, hàng thêu trong 4 năm gần đây luôn dẫn đầu và đạt trên 1 triệu USD/ năm. Những mặt hàng như mây tre đan, gốm sứ, sơn mài, gỗ mỹ nghệ, cói đay, thổ cẩm đã dần chiếm lĩnh lại thị trường như trước đây. Thị trường của công ty cũng khá phát triển trong những năm gần đây, những thị trường khó tính như: EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và đặc biệt là các thị trường mới và cũng khó tính như: Mỹ, Canada, Braxin… cũng đã tiếp cận hàng hóa của công ty và dần chấp nhận chất lượng hàng hóa của công ty trong gần bốn năm qua mà không có một khoản khiếu nại và từ chối thanh toán nào. Trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài, ngày 14/12/2006 Bộ Thương mại đã ra quyết định số 2130/QĐ- BTM phê duyệt phương án cổ phần hóa công ty. Thực hiện quyết đinh trên, được sự đồng ý của Bộ Thương Mại và ban chỉ đạo cổ phần hóa ngày 18/1/2007 dưới sự giám sát của Bộ, công ty đã thực hiện thành công việc đấu giá công khai cổ phần ra ngoài công chúng cho các nhà đầu tư. Ngày 14/3/2007 công ty đã tiến hành Đại hội Hội đồng cổ đông thành lập công ty cổ phần xuất nhập khẩu Mỹ nghệ Thăng Long một cách thành công tốt đẹp và đại hội cũng đã thông qua điều lệ công ty, bầu ra được hội đồng quản trị. Ngay sau khi kết thúc Đại hội, Hội đồng quản trị đã họp phiên đầu tiên bầu ra Tổng Giám Đốc và cũng đã tiến hành đầy đủ các bước theo quy định để thành lập bộ máy lãnh đạo mới của công ty cổ phần và ổn định tổ chức. Năm 2007 cũng là năm đầu tiên công ty chính thức hoạt động theo mô hình của công ty cổ phần. Đây là bước chuyển đổi mang tính lịch sử trong suốt quá trình hình thành và phát triển của công ty sau 18 năm thành lập. 1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty. Là một công ty cổ phần có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài sản, có con dấu riêng, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh độc lập nên hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đảm bảo không làm trái pháp luật. Công ty thực hiện viện kinh doanh của mình theo Luật Thương Mại Việt Nam, chịu trách nhiệm về hành vi và nguồn vốn nhà nước cấp. Trên cơ sở đó công ty cổ phần XNK mỹ nghệ Thăng Long có chức năng và nhiệm vụ sau: Tổ chức tiêu thụ mặt hàng nhập khẩu, gồm các mặt hàng phục vụ tiêu dùng như nguyên vật liệu, thiết bị phục vụ sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu của công ty và các ngành sản xuất khác trong nước. Tổ chức hàng thêu xuất khẩu tại công ty Nhận xuất khẩu và nhập khẩu ủy thác cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, tham gia liên doanh liên kết các mặt hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước Thực hiện hoạt động kinh doanh an toàn và có lãi, đảm bảo thu nhập nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty. 1.2.3. Cơ cấu tổ chức của công ty. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty ARTEX Thăng Long: ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT TỔNG GIÁM ĐỐC PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC PHÒNG T. CHỨC H. CHÍNH PHÒNG T. CHÍNH K. HOẠCH PHÒNG THỊ TRƯỜNG CHI NHÁNH TẠI TP. HCM PHÒNG KINH DOANH 1 PHÒNG KINH DOANH 2 PHÒNG KINH DOANH 4 PHÒNG KINH DOANH 6 PHÒNG KINH DOANH 9 : Quan hệ theo dõi và giám sát : Quan hệ quản lý và chỉ đạo trực tiếp : Quan hệ hướng dẫn, phối hợp và trao đổi thông tin Bộ máy điều hành của công ty bao gồm các phòng ban và bộ phận sau: - Ban giám đốc: Đứng đầu là Tổng Giám Đốc công ty, chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trước pháp luật và bộ chủ quản. Tổng giám đốc công ty là người hoạch định chiến lược, lập kế hoạch kinh doanh, đồng thời là người trực tiếp điều hành mọi hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, Tổng Giám Đốc được sự hỗ trợ đắc lực của Phó Tổng Giám đốc. Phó Tổng Giám Đốc là người tham mưu cho Tổng Giám đốc trong công tác hàng ngày, đồng thời thay mặt cho Tổng Giám Đốc những lúc cần thiết. - Các bộ phận quản lý: + Phòng tài chính kế hoạch: Có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các nghiệp vụ hạch toán vốn, xử lý và cung cấp các thông tin về tình hình sử dụng vốn, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty cho các bộ phận quản lý cấp trên và các bộ phận có liên quan. Phòng còn có chức năng tham mưu cho Tổng Giám đốc xét duyệt các phương án kinh doanh, hướng dẫn giúp đỡ các phòng ban theo dõi các hoạt động kinh doanh, đồng thời theo dõi việc hạch toán tổng hợp về các hoạt động phát sinh trong công ty. + Phòng tổ chức hành chính: Có chức năng tổ chức quản lý, tuyển chọn lao động, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên và nâng cao trình độ quản lý của các bộ phận trong công ty. Tiếp nhận, vào sổ, chuyển đúng đối tượng công văn giấy tờ thư từ đi đến và giữ bí mật cho công ty. + Phòng thị trường: Tiến hành công tác nghiên cứu thị trường, thực hiện các hoạt động đón tiếp khách hàng trong và ngoài nước, bố trí việc tham gia các hội chợ thương mại - Các bộ phận kinh doanh: + Phòng kinh doanh 1 và phòng 6 : Chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu về mặt hàng thêu ren + Phòng kinh doanh 2: Chuyên kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. + Phòng kinh doanh 4: Là phòng chuyên nhập khẩu và kinh doanh trong nước, ngoài ra còn thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu hàng thêu ren. + Phòng kinh doanh 9: Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tổng hợp. + Chi nhánh tại thành phố HCM: Thực hiện chức năng như 1 phòng kinh doanh, trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh doanh ở phía Nam như tổ chức ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu… Trong từng phòng ban được phân bố nhân sự rất hợp lý với chức năng và nhiệm vụ của mình, với hầu hết là có trình độ Đại học trở lên, 100% cán bộ công nhân viên trong nghiệp vụ XNK là có trình độ đại học. Tại công ty ARTEX Thăng Long, mỗi phòng chức năng được coi như một đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập với chế độ hạch toán riêng. Mỗi phòng có được bổ nhiệm một trưởng phòng và một phó phòng điều hành mọi hoạt động kinh doanh của phòng mình. 1.2.4. Ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của công ty. Như trên đã nói, công ty ARTEX Thăng Long có chức năng và nhiệm vụ chính là xuất nhập khẩu đồ thủ công mỹ nghệ và một số mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước ta thấy được lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty là thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Thủ công mỹ nghệ là mặt hàng phát triển đã từ rất lâu đời ở Việt Nam, mang đặc điểm riêng và rất đặc biệt so với những loại hàng hóa khác. Như đã biết dân tộc Việt Nam có truyền thống trồng lúa nước lâu đời, hay nông nghiệp nói chung, thì các nghề thủ công cũng rất phát triển. Đầu tiên là nghề chế tác đá ra đời, sau đó nghề làm đồ gốm, nghề mộc, đan lát, nghề dệt, nghề đúc đồng, rèn sắt…cũng dần dần phát triển. Trước đây các sản phẩm làm ra rất đơn giản, thô sơ nhưn._.và lợi thế của mình trong bán hàng cũng như giới thiệu sản phẩm của mình. - Nguyên nhân của hạn chế: + Có nhiều doanh nghiệp cùng xuất khẩu hàng TCMN trong nước sang thị trường EU khiến cho công ty phải chia sẻ lợi nhuận và thị phần cho các công ty khác làm cho thị trường của công ty khó có thể mở rộng dẫn đến kết quả kinh doanh giảm. + Những biến động lớn của nền kinh tế thế giới như khủng hoảng tài chính ở khu vực Châu Á, khủng bố 11/9 của Mỹ khiến sức mua của thị trường thế giới giảm đáng kể làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng của công ty. + Có nhiều đối thủ cạnh cũng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới cũng là một khó khăn cho công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang EU. Một số đối thủ cạnh tranh cũng xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: Trung Quốc, Thái Lan, In đônesia, singapo… + Chất lượng sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty còn chưa tốt vì nó còn phụ thuộc vào sự vận chuyển, bảo quản, phân loại hàng hoá. + Vì chủ yếu là thu mua hàng xuất khẩu nên công ty ít có sự đột phá trong mẫu mã hàng hoá, cải tiến sản phẩm, thiếu sáng tạo trong thẩm mỹ hàng thủ công mỹ nghệ. Các nguyên nhân cơ bản trên trực tiếp hoặc gián tiếp đã làm giảm hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng TCMN nói chung và sang thị trường EU nói riêng. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ SANG THỊ TRƯỜNG EU CỦA CÔNG TY ARTEX THĂNG LONG 3.1. Mục tiêu phát triển ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam và của công ty ARTEX Thăng Long. 3.1.1. Mục tiêu phát triển ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đến năm 2010. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 750 triệu USD, tăng 19% so với năm 2006. Mục tiêu đến năm 2010, Việt Nam phấn đấu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở mức 20-22% năm và kim ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ đôla Mỹ, hàng năm tạo ra thêm 300.000 việc làm ở khu vực nông thôn, phấn đấu tăng thu nhập từ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ - cao hơn từ 2-4 lần so so sản xuất nông nghiệp. Phát triển xuất khẩu hàng TCMN ở Việt Nam theo hướng: * Ngành thủ công mỹ nghệ phải được ưu tiên phát triển và được coi là một trong những ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta trong những năm tới. * Phát triển hàng TCMN phải gắn liền với sự phát triển của các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu nước ta. *Phát triển hàng TCMN theo hướng tinh xảo, đa dạng và mang đậm nét văn hóa dân tộc Việt Nam. 3.1.2. Mục tiêu phát triển của công ty ARTEX Thăng Long. a)Mục tiêu chung - Tiếp tục quan tâm, sâu sát đến định hướng và tình hình hoạt động cụ thể của từng bộ phận trong công ty. Tập trung đẩy mạnh sản xuất kinh doanh bằng mọi biện pháp đúng đắn với mục tiêu là tăng doanh thu, lợi nhuận bên cạnh việc tăng một cách ổn định thu nhập cho người lao động và trả cổ tức cho các cổ đông. - Làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ công nhân viên Công ty nhằm thấy rõ thuận lợi, khó khăn của các năm tới đặc biệt là sự thay đổi trong nhận thức từng người, đấu tranh loại bỏ tư tưởng bao cấp.Xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong đó mọi người tự giác chủ động dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, đoàn kết hoàn tốt nhiệm vụ được giao ở từng vị trí một cách sáng tạo, đúng pháp luật. Thực hành dân chủ và tiết kiệm trên mọi mặt công tác. Tạo điều kiện để cán bộ của các phòng được tham gia khóa học ngắn hạn do Bộ Công thương tổ chức. - Tiếp tục bổ sung mẫu mã cho các sản phẩm, trang thiết bị phục vụ cho công tác giao dịch. Đẩy mạnh mở rộng và đa dạng hoá các tổ chức sản xuất, dịch vụ gắn liền với hoạt động kinh doanh hàng hoá nhằm mở rộng phát triển thị trường trong và ngoài nước - Hoàn thiện lại quy chế hoạt động của công ty cổ phần để tạo các hành lang các quy định đảm bảo vừa thông thoáng cho sản xuất kinh doanh, vừa chặt chẽ và cụ thể cho quản lý, với mục tiêu ổn định và phát triển công ty. - Hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị đề ra. b) Mục tiêu cụ thể cho năm 2008. - Phòng kinh doanh 1: Kim ngạch gia công xuất khẩu 400.000 USD phấn đấu thêm 100.000 USD. Lãi gộp (M) 32000 USD phấn đấu thêm 8.000USD - Phòng kinh doanh 2: Kim ngạch xuất khẩu 850.000USD phấn đấu thêm 150.000USD. Lãi gộp (M) 68.000USD phấn đấu thêm 12.000 USD - Phòng kinh doanh 4: Lãi gộp (M) nộp cố định 250.000.000 đồng phấn đấu thêm 150.000.000 đồng. - Phòng kinh doanh 6: Kim ngạch gia công xuất khẩu 1.250.000 USD phấn đấu thêm 500.000 USD. Lãi gộp (M) 100.000USD phấn đấu thêm 40.000USD - Phòng kinh doanh 9: Lãi gộp (M) nộp cố định 100.000.000 đồng phấn đấu tăng 100.000.000 đồng - Chi nhánh: + Chủ động sản xuất kinh doanh, kiện toàn bộ máy, đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại, mở ra hướng có kim ngạch xuất khẩu trực tiếp + Lãi gộp (M) nộp cố định 100.000.000 đồng ( thông qua hạch toán phụ thuộc tại chi nhánh) phấn đấu tăng 100.000.000 đồng + Đối với các bộ phận kinh doanh, sau khi công ty sơ kết xong 6 tháng , nếu xét thấy thị trường có nhiều biến động lớn hay có các nhân tố khác tác động vào tình hình thực hiện kế hoạch, thì công ty sẽ có sự điều chỉnh kế hoạch năm để phù hợp hơn với tình hình thực tế. - Phòng TCHC: + Tiếp tục rà soát kiện toàn lại toàn bộ hệ thống nguồn nhân lực trong công ty đặc biệt là việc quy hoạch cán bộ. Chủ động và mạnh đề xuất với Tổng Giám Đốc các biện pháp sắp xếp tuyển dụng lao động và giải quyết các chế độ sao cho phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mà lãnh đạo Công ty đề ra. + Quản lý và khai thác tối đa khối tài sản với mục tiêu an toàn và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. + Sử lý dứt điểm các thủ tục liên quan đến chứng nhận quyền sử dụng đất của Công ty cổ phần đối với UBND Thành phố Hà Nội. + Hướng dẫn và phục vụ kịp thời yêu cầu của các phòng, các bộ phận liên quan và tham mưu với lãnh đạo để có biện pháp giải quyết một cách tốt nhất. + Có kế hoạch một cách chủ động về việc tổ chức các công tác và hoạt động mang tính tập thể như: Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp, tham quan nghỉ mát.Khám chữa bệnh định kỳ và các sinh hoạt tinh thần nhân dịp các ngày kỷ niệm lớn, các ngày lễ tết mang tính phúc lợi. + Tiếp tục làm tốt công tác thường trực về an ninh, bảo vệ cũng như công tác phòng cháy chữa cháy và dân quân tự vệ theo đúng quy định của pháp luật và của công ty. - Phòng tài chính kế hoạch: + Tiếp tục tổ chức lại bộ máy kế toán, hệ thống tài khoản và phương pháp hạch toán đúng với quy định của Nhà nước và phù hợp với yêu cầu của Công ty cổ phần. + Xác định rõ ràng về nhu cầu và có biện pháp thực hiện cụ thể về việc đáp ứng nguồn vốn phục vụ SXKD toàn công ty. + Báo cáo tài chính năm 2007 và quyết toán thuế dứt điểm với cục thuế Hà Nội. Phát huy tính khẩn trương làm thủ tục hoàn thuế GTGT khi đủ điều kiện. + Tích cực tham mưu các vấn đề liên quan đến cơ quan quản lý phần vốn góp của nhà nước vào công ty. - Phòng thị trường: Tự xác định lại chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và báo cáo kết quả với Tổng Giám Đốc để có phương hướng hoạt động cho phòng một cách hiệu quả, thiết thực và phù hợp với quy mô của một phòng chức năng trong Công ty. - Đối với các tổ chức đoàn thể: Công ty luôn khuyến khích và tạo điều kiện ở mức tối đa cho các hoạt động của các tổ chức đoàn thể đúng theo quy định của Pháp luật và điều lệ của Tổ chức mình, tuy nhiên các hoạt động này phải thiết thực và phù hợp với điều kiện của công ty. 3.1.3. Chiến lược của công ty đến năm 2015. * Chiến lược mở rộng thị trường, mặt hàng và ngành nghề mới. - Duy trì và phát triển kinh doanh hàng truyền thống là hàng TCMN. Công ty vẫn tiếp tục sản xuất các mặt hàng thêu và phát triển xưởng thêu trở thành xưởng sản xuất chính cung cấp chủ yếu các mặt hàng thêu xuất khẩu cho công ty và một số các công ty khác trong nghành xuất khẩu TCMN. - Từng bước củng cố, đầu tư một cách hợp lý nhằm đẩy mạnh quy mô và doanh số. Tiếp tục duy trì và ổn định thị trường trong nứơc và nước ngoài. * Chiến lược củng cố và phát triển khách hàng. - Tiếp tục tham gia quảng cáo, chào hàng, tham gia các hội thảo liên quan đến mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại. Đặc biệt quan tâm và đầu tư khai thác vào các thị trường mới như Mỹ, Canada. Tham gia thường xuyên các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Khai thác thị trường nội địa nhằm tìm ra các nguồn hàng cũng như cung cấp nội địa có thể cung cấp hàng mẫu mới. - Xác định, phân loại khách hàng và bạn hàng để xây dựng chính sách thống nhất cho hoạt độngbán hàng, có quy định chế độ ưu đãi về giá cả sản phẩm, dịch vụ thanh toán đối với bạn hàng có uy tín gắn bó với công ty và những bạn hàng quan trọng. - Mở rộng quan hệ hợp tác tại nhiều thị trường trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, lựa chọn đối tác tin tưởng có tiềm năng lớn để thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài. * Chiến lược về vốn, tài chính. - Huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau để từ đó có thể tăng thêm nguồn vốn kinh doanh cho công ty. Phấn đấu tăng vòng quay vốn, giảm tối đa công nợ và bán trả chậm. - Tính toán phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý, tranh thủ tối đa các nguồn vốn ứng trước của khách hàng - Giư vững mối quan hệ , đảm bảo uy tín đối với ngân hàng trong việc vay vốn và thanh toán nợ. *Chiến lược Marketing: - Xây dựng chính sách Marketing hấp dẫn và hiệu quả, nỗ lực thu hút thêm khách hàng mới, tăng cường công tác tiếp thị quảng bá tên tuổi, mặt hàng của công ty trông qua các phương tiện quảng cáo. - Xác định những mặt hàng chủ lực, đề ra cơ chế đầu tư thích hợp đảm bảo lưu chuyển bình thường và có dự trữ tồn kho hợp lý. * Chiến lược nguồn nhân lực: Chỉnh lý, bổ sung hoàn thiện chế độ tiền lương, tiền thưởng sao cho tiền lương thưởng thực sự là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy người lao động hăng say làm việc, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh doanh. Có chính sách đãi ngộ hợp lý với người lao động trên cơ sở chất lượngvà hiệu quả của công việc. Có kế hoạch đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ, năng động nhiệt tình có trình độ. 3.2. Giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu hàng TCMN sang thị trường EU của công ty ARTEX Thăng Long. 3.2.1. Giải pháp cho công tác nghiên cứu và xây dựng chiến lược thị trường toàn diện. Thị trường EU là thị trường có sức mua lớn nhưng yêu cầu về chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã hàng hoá cần cầu kỳ và luôn giữ chữ tín trong làm ăn. Để tăng cường xâm nhập vào thị trường này công ty cần: - Tiếp tục cử các đoàn đi tham dự các hội chợ, triển lãm và các ngày hội văn hoá Việt Nam tại các nước EU, thông qua các sản phẩm TCMN để giới thiệu về nền văn hoá Việt Nam. - Công ty có thể thông qua các tham tán thương mại Việt Nam ở các nước EU để tìm kiếm, xâm nhập và phát triển thị trường. Đây là giải pháp mà lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm nhiều nên cần phải có kế hoạch cụ thể khi tiến hành việc này. Công ty sẽ có được thông tin thường xuyên về thị trường và luôn có thể chủ động giới thiệu hàng hoá của mình khi đối tác quan tâm. - Trong khu vực thị trường EU, công ty cũng cần quan tâm nghiên cứu thật kỹ nhu cầu, sở thích của từng nước. Ví dụ như: người Ý rất coi trọng hình thức, nhưng người Đức lại thích tính tiện dụng của sản phẩm và các màu nhã nhặn như màu kem hay màu xám nhạt. Từ đó, công ty có thể có những chính sách hợp lý và chính sách quảng cáo , xúc tiến để xâm nhập sâu vào từng thị trường. - Công ty cần có một đội ngũ chuyên trách có thể cập nhật được tốt nhất các thông tin về thị trường, cần tích cực hơn nữa trong các cuộc hội thảo, trao đổi các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp các cơ quan đại diện của Việt Nam để thu thập thông tin. 3.2.2. Giải pháp cho đầu tư tạo nguồn hàng TCMN xuất khẩu. Phần lớn hàng TCMN của công ty mang đi xuất khẩu là do thu mua từ các cơ sở bên ngoài chính vì vậy để đảm bảo đúng tiến độ thu mua về số lượng và chất lượng cho xuất khẩu là một công việc rất khó khăn. Hơn nữa các đơn đặt hàng từ các nước trong khối EU đều là những đơn đặt hàng rất lớn do đó công ty thường phải thu mua từ nhiều nguồn hàng khác nhau nên có thể không bảo đảm được tiến độ trong hợp đồng, gây mất uy tín hoặc bị phá vỡ hợp đồng. Chính vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là công ty cần phải chuẩn bị cho mình một nguồn hàng ổn định đủ đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời ngày càng nâng cao chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của công ty. - Công ty phải tổ chức hệ thống thu mua hợp lý. Việc phân bổ các điểm thu mua phải hợp lý cho việc thu mua hàng và thuận lợi cho người sản xuất cả về vận chuyển hàng hoá, để giảm chi phí lưu thông, hạ giá thành sản phẩm, vừa đảm bảo cho người lao động. - Tạo mối quan hệ mật thiết với các nguồn hàng, các nhà cung cấp thông qua tài trợ, tổ chức các chương trình giao lưu…để từ đó có thể tạo ra những nguồn hàng ổn định hơn cho việc xuất khẩu của Công ty. - Công ty cần tham gia đầu tư vốn, máy móc thiết bị cho các cơ sở hay các làng nghề sản xuất ra những sản phẩm phục vụ xuất khẩu cho công ty để từ đó Công ty có thể kiểm soát, chi phối, tạo sự ổn định các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh của Công ty. Khi thực hiện đầu tư cho các cơ sở sản xuất này, Công ty có thể tham gia vào quá trình sản xuất và có thể kiểm soát được chất lượng hàng TCMN và không bị cạnh tranh bởi các Công ty khác. Công ty òn nên tham gia với vai trò đầu tư hướng dẫn kỹ thuật cho các cơ sơ sản xuất, qua nghiên cứu thị trường nắm bắt được các nhu cầu, tổ chức thiết kế mẫu mã sản phẩm hợp lý, đặt hàng và hướng dẫn kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất để có được mặt hàng như ý - Mở rộng liên doanh, liên kết sản xuất để sản xuất ra các sản phẩm với các công ty khác để có thể hỗ trợ nhau trong kinh doanh khi công ty có những hợp đồng lớn. - Đầu tư váo xưởng sản xuất Thủ công mỹ nghệ tại công ty để có thể chủ động hơn trong công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu bằng cách: Đầu tư thêm các công nghệ mới hiện đại một số khâu để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, kiểm tra, tình trạng cơ sở vật chất lao động và các vấn đề tổ chức sản xuất để có kế hoạch đầu tư nâng cấp cao hơn, đầu tư thêm cán bộ kỹ thuật, đào tạo mới đào tạo lại các lao động, có thu hút các nghệ nhân từ các làng nghề về xưởng sản xuất. 3.2.3. Tăng cường hoạt động giao tiếp, khuyếch trương và quảng bá sản phẩm. Mỗi công ty có nhu cầu phát triển, bành trướng quy mô và danh tiếng trên thị trường thế giới. Để đạt được điều này ngoài những chính sách hoạt động khác, công ty cần phải quan tâm và đẩy mạnh chính sách giao tiếp và khuyếch trương của mình. Một số hình thức thực hiện công tác này như: Thư giao dịch: Nếu sự tiếp xúc ban đầu mang tính chất giới thiệu và nhằm thu hút sự quan tâm của khách hàng đối với công ty thì một tấm bưu thiếp có ảnh kèm theo vài lời giới thiệu ngắn gọn, súc tích và ấn tượng chắc hẳn sẽ có hiệu quả cao. Lời giới thiệu không nhất thiết phải quảng bá ngay sản phẩm của mình, mà có thể là nói về những gì xung quanh nó nhằm làm cho khách hàng cảm nhận được sự quan tâm, niềm phấn khích và đôi khi có thể là tính tò mò mà có những quan hệ tiếp theo đối với công ty. Những thư giao dịch tiếp theo đó phải có thái độ thiện chí hơn và tỏ ra có trách nhiệm với thư ban đầu hay thư trước đó, tỏ thái độ trung thực nhằm chiếm được lòng tin của khách hàng làm cho chính sách quảng bá sản phẩm của công ty thành công. Catalog: Đây là loại hình quảng cáo bằng hình ảnh. Loại hình quảng cáo này rất quan trọng và cần thiết vì nó có thể cho khách hàng cảm nhận sự đa dạng của sản phẩm bằng trực quan, nhận biết được mẫu mã sản phẩm và kiểm tra xem có phù hợp với mục đích của mình không? Chính vì vậy việc thiết kế Catalog là rất quan trọng trong việc gây cảm giác thích thú và hấp dẫn khách hàng. Chúng ta có thể có nhiều cách phân bố hình ảnh trong catalog để gây hấp dẫn và thích thú với khách hàng. Ngoài ra quyển catalog cũng cân được thiết kế cho phù hợp và thuận lợi với việc thay đổi và bổ sung mẫu mã mới. Catalog có thể được thiết kế theo chủ đề, theo chủng loại sản phẩm,theo chất liệu…tùy theo từng chủ đề, công ty có thể thiết kế để phù hợp nhất với thực trạng của công ty. Báo, tạp chí: Là một công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ , công ty có thể chọn đăng quảng cáo trên các tạp chí và các báo, tuy nhiên việc thiết kế quảng cáo trên báo và tạp chí như thế nào để làm hấp dẫn người đọc làm nổi bật được những ưu điểm của sản phẩm là một vấn đề quan trọng. Công ty cũng cần phải thiết kế chương trình quảng cáo trên từng nước trong khu vực thị trường này. Là một công ty xuất nhập khẩu hàng TCMN, Công ty có thể chọn đăng quảng cáo trên các báo, tạp chí như: Tạp chí mỹ nghệ và kim hoàn, tạp chí Business, Tạp chí thương mại… Mạng Internet: Đây là mạng thông tin toàn cầu, xoá bỏ mọi sự giới hạn về không gian và thời gian, có thể khuyếch trương được sản phẩm của mình trên thế giới. Công ty không thể bỏ qua cơ hội rất tốt này để quảng bá sản phẩm của mình vừa tiết kiệm thời gian, tiền bạc lại vừa hiệu quả.Công ty có thể tạo ra những trang Web quốc tế được thiết kế sinh động, hấp dẫn và tiện lợiể khách hàng có thể hiểu biết hơn về công ty và các sản phẩm của Công ty Tuy nhiên, sử dụng một số hình thức trên công ty cũng phải chú ý đến một số quy định mang tính chất quốc tế như: EU hạn chế quảng cáo trên tivi nhằm đối tượng khách hàng là trẻ em, nhiều quốc gia cấm sử dụng những từ như miễn phí, biếu không…, thị trường Tây Ban Nha cho phép sử dụng hầu hết các công cụ giao tiếp như chào hàng thư tín, quà tặng kèm theo sản phẩm nhưng ở Đức lại không được dùng những công cụ này. Thực hiện tốt chính sách quảng bá sản phẩm sẽ mang lại hiệu quả cao cho công ty thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty hơn, đem lại hình ảnh đẹp và uy tín trên thị trường cho Công ty. 3.2.4. Đa dạng hoá mẫu mã, nâng cao chất lượng hàng TCMN. EU là một thị trường khó tính, đòi hỏi cao về chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Do vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN sang thị trường này cần nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sao cho phù hợp với thị hiếu, tập quán tiêu dùng của người dân ở khu vực này. Để cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm của công ty cần có sự kết hợp giữa các cán bộ nghiên cứu thị trường, cán bộ thu mua hàng và cơ sở sản xuất để đưa ý tưởng do công ty thiết kế đến các cơ sở dựa trên sự nghiên cứu tiêu dùng của nước nhập khẩu. Công ty cần thành lập thêm bộ phận với các chuyên gia thiết kế mẫu mã để phối hợp cùng với các cơ sở sản xuất làm phong phú thêm cho mặt hàng TCMN của công ty nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó công ty cũng cần nâng cao chất lượng sản phẩm của sản phẩm TCMN. Chất lượng sản phẩm có thể là một vũ khí để công ty cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như nước ngoài. Đây là việc hết sức khó khăn vì phần lớn sản phẩm xuất khẩu của công ty đều phải đi thu mua từ bên ngoài. Do đó, trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng sản phẩm thủ công mỹ nghệ, Công ty nên đầu tư vào sản xuất hàng TCMN chính tại các làng nghề để từ đó có thể quản lý được chất lượng sản phẩm ngay từ khi sản xuất, lập bảng yêu cầu về chất lượng sản phẩm khi thu mua nhằm thu được các sản phẩm đạt chất lượng tiêu chuẩn đặt ra. Công ty cũng nên thực hiện việc kiểm tra hàng hóa trước khi xuất khẩu một cách cẩn thận và kỹ lưỡng để tránh rủi ro trong xuất khẩu như: hàng hóa bị gửi trả lại, gây mất uy tín cho Công ty trên nhưng thị trường khó tính như thị trường EU. Công ty cũng cần có chính sách đào tạo hướng dẫn kỹ thuật cho đội ngũ lao động ở các làng nghề, cơ sở sản xuất hàng TCMN. 3.2.5. Sử dụng chuyên gia tư vấn nước ngoài trong việc cải tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Thị trường EU là thị trường rất rộng lớn, bao gồm 27 quốc gia khác nhau. Mỗi quốc gia là một thị trường nhỏ, có phong tục tập quán, giá trị văn hoá khác nhau nên ảnh hưởng tới tâm lý tiêu dùng, sự cảm nhận về cái đẹp là khác nhau. Dù một sản phẩm đẹp đến mấy nhưng nó không phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng của thị trường đó thì sản phẩm đó cũng bị loại. Việc cải tiến mẫu mã sản phẩm không làm tuỳ tiện theo cảm hứng của nhà sản xuất được mà phải dựa theo sở thích của người tiêu dùng. Ví dụ, người Đức thích những sán phẩm tiện dụng, người Pháp thích những sản phẩm có màu tươi sáng… Những đặc trưng như vậy chỉ có những chuyên gia nước ngoài mới hiểu hết được. DO đó công ty cần đầu tư thuê chuyên gia người nước ngoài thiết kế sản phẩm có thể thâm nhập vào thị trường EU. Tuy nhiên, thuê chuyên gia rất tốn kém nên công ty chỉ nên tập trung vào một số thị trường có sức mua lớn chứ không phải tất các thị trường. 3.2.6. Nâng cao trình độ kinh doanh xuất khẩu cả về nghiệp vụ lẫn kiến thức về hàng TCMN cho nhân viên trong công ty. Đối với mặt hàng TCMN, đòi hỏi cán bộ xuất khẩu không chỉ thành thạo trong công việc giao dịch tìm đối tác, bạn hàng, đàm phán, ký kết hợpđồng mà còn phải trang bị cho mình những kiến thức về hàng thủ công mỹ nghệ như: quy trình sản xuất, nguyên liệucấu tạo nên sản phẩm, trình độ thẩm mỹ, ảm hiểu về mỹ thuật để có thể tư vấn cho nhà sản xuất về kiểu dáng, mẫu mã…Nói cách khác là nhân viên cần phải đặt mình vào vị trí người thợ thủ công để khi nhìn vào những sản phẩm mẫu mã do khách hàng nước ngoài đặt hàng, nhân viên giao dịch của công ty có thể biết được những chất liệu gì có thể làm ra sản phẩm đó và ước lượng được giá thành sản phẩm đó, sẽ giúp cho quá trình đàm phán với khách hàng được thuận lợi hơn. Công ty cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như kiến thức về các sản phẩm TCMN cho các nhân viên trẻ. Công ty có thể tạo điều kiện cho các cán bộ tham gia các buổi hội thảo, các khoá huấn luyện ngắn ngày ở bên ngoài hoặc các buổi nói chuyên với các chuyên gia, những người có kinh nghiệm. Đối với những nhân viên trẻ sau khi tuyển dụng, Công ty cần đào tạo để nắm rõ chuyên môn, nghiệp vụ, trách nhiệm, quyền hạn được giao, tạo điều kiện cho các nhân viên này đi thực tế nhiều hơn để họ có kinh nghiệm. Công ty cần có kế hoạch cho việc đào tạo dưới các hình thức như: cử đi đào tạo, đào tạo tại chỗ không mất chi phí…tổ chức các khóa học trong các trường đại học và đánh giá được hiệu quả của các phương pháp và hình thức đào tao 3.2.7. Mở rộng mạng lưới liên kết với các nhà sản xuất hàng TCMN. Ngày nay với xu hướng các nước trong khối EU ngày càng ưa chuộng các sản phẩm TCMN của Việt Nam, công ty sẽ có nhiều đơn đặt hàng lớn từ thị trường này. Chính vì vậy để đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định, công ty cần mở rộng liên kết với các cơ sở sản xuất làng nghề trong nước. Công ty cần củng cố và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các chân hàng, tìm kiếm các cơ sở sản xuất mới để mở rộng liên kết có thêm những mẫu mã sản phẩm mới và góp phần ổn định nguồn hàng TCMN của công ty. Công ty nên cử các cán bộ đi tìm hiểu về các cơ sở sản xuất, tìm hiểu về khả năng sản xuất, chất lượng mặt hàng, sự đa dạng về mẫu mã và nếu thấy đảm bảo thì hợp tác mua. Mở rộng thêm mối quan hệ với các chân hàng trên khắp cả nước để làm phong phú nguồn hàng xuất khẩu cho công ty. 3.2.8. Nâng cao chất lượng đóng gói, bảo quản hàng TCMN. EU là một thị trường rất khó tính, họ rất chú trọng đến chất lượng hàng TCMN. Chính vì vậy công ty cần chú ý đến công tác đóng gói và bảo quản hàng TCMN. Nâng cao hiệu quả công tác này cũng góp phần làm giảm giá thành sản phẩm vì chi phí bao gói là một bộ phận trong giá thành của hàng TCMN. Bên cạnh đó, việc bảo quản hàng hoá cho đến khi hàng được trao tận tay nhà nhập khẩu là vô cùng quan trọng. Những lỗi nhỏ do sơ ý trong vận chuyển, hay khâu hoàn thiện sản phẩm cũng có thể dẫn đến tác hại lớn là làm cho cả lô hàng đó khó bán thậm chí còn bị trả lại. Chính vì vậy cần nâng cao hiệu quả côngtác đóng gói và bảo quản hàng hóa để đảm bảo hàng xuất đi thành công nhất. 3.3. Một số kiến nghị đối với nhà nước. 3.3.1 Tăng mức ưu đãi trong sản xuất kinh doanh hàng TCMN. Để tạo động lực cho ngành thủ công mỹ nghệ phát triển, nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau: - Dự án sản xuất kinh doanh hàng TCMN thuộc ngành nghề truyền thống, có sử dụng nhiều lao động được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 2 năm và giảm 50% cho 4 năm tiếp theo - Nếu dự án thực hiện xuất khẩu trên 30% thì được hưởng ưu đãi: miễn 3 năm thuế TNDN và giảm 50% cho các năm tiếp theo. 3.3.2. Chính sách đối với các làng nghề và đối với các nghệ nhân. Hàng TCMN Việt Nam được sản xuất chủ yếu ở các làng nghề truyền thống. Vì vậy để đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu, nhà nước nên có những chính sách phát triển làng nghề truyền thống. Trong những năm gần đây, hoạt động theo cơ chế thị trường đã làm cho các làng nghề truyền thống có sự phân hoá rõ rệt: một số làng nghề phát triển mạnh(như gốm, chạm khảm, chế biến gỗ, mây tre),một số làng nghề lại phát triển cầm chừng ( nghề đồ sành, đúc đồng…),có những làng nghề gặp nhiều khó khăn ( nghề giấy gió, gò đồng…) và một số làng nghề đang trong quá trình suy vong và có khả năng mất đi. Các làng nghề có điều kiện và cơ hội để phát triển thì lại gặp khó khăn về tài chính, thiếu vốn, cơ sở hạ tầng yếu kém… Nên nhà nước cần có những chính sách đối với các làng nghề và các nghệ nhân như sau: - Nhà nước cần có biện pháp và kế hoạch phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ ở địa phương trong cả nước. Chính phủ có thể xem xét và phê duyệt cấp vốn đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, bến bãi, đường dây tải điện..) của các làng nghề có xuất khẩu trên 30% gía trị sản lượng hàng hoá. Cần có biện pháp giúp đỡ hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất hàng TCMN, xây dựng vùng nguyên liệu cho sản xuất hàng TCMN - Tổ chức thành lập hiệp hội các làng nghề: Sự ra đời các hiệp hội này sẽ làm tăng thêm mối liên kết giữa các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhà nước cần đứng ra thành lập hiệp hội, kêu gọi các công ty các cơ sở xuất khẩu hàng TCMN tham gia vào hiệp hội bằng các chính sách khuyến khích như: miễn giảm thuế, có ưu đãi riêng về thủ tục vay vốn ngân hàng… - Đối với các nghệ nhân: +Phong tặng danh hiệu “nghệ nhân”, “bàn tay vàng” cho những người thợ giỏi, có nhiều đóng góp vào việc giữ gìn,phát triển làng nghề và kèm theo các giải thưởng nhằm khuyến khích họ phát huy tài năng. + Bồi dưỡng miễn phí các kiến thức về hội hoạ, mỹ thuật cho các nghệ nhân tại các trường cao đẳng mỹ thuật +Bảo hộ quyền sở hữu đối với các sáng chế giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá. 3.3.3. Tăng cường vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng TCMN. Vốn để phát triển sản xuất là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong các làng nghề nói chung và ngành thủ công mỹ nghệ nói riêng. Cũng như các ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu khác, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về vốn để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng TCMN ngày càng có chất lượngcao hơn. Nhà nước có thể tăng vốn cho vay từ các nguồn vốn tín dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ quốc gia xúc tiến việc làm và các ngân hàng TM quốc doanh. Khi nguồn vốn được đảm bảo, các cơ sở sẽ có điều kiện trang bị máy móc, đầu tư công nghệ mới và phát triển sản xuất 3.3.4. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. - Nhà nước cần thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại tại một số nơi ở nước ngoài. Các trung tâm này có các gian hàng cho các doanh nghiệp trong nước thuê để trưng bày, chào hàng với giá khuyến khích. - Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng TCMN tham gia hôi chợ triển lãm nước ngoài. - Giao nhiệm vụ cho các đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài để tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của người nước ngoài. 3.3.5. Đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu. - Tiếp tục áp dụng những biện pháp mới mà ngành hải quan đã thực hiện như phân luồng hàng hoá, quy định xác nhận thực xuất, quy chế khai báo một lần, đăng ký tờ khai trên máy tính… - Nhà nước cần có văn bản rõ ràng về việc nhập mác, mã vạch của khách hàng nước ngoài để đính vào hàng TCMN - Giảm nhẹ tiền cước vận chuyển và các lệ phí tại các cảng, cửa khẩu đối với hàng TCMN Trên đây là một số đề xuất của cá nhân tôi nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng TCMN của công ty ARTEX Thăng Long sang thị trường nước ngoài đặc biệt là thị trường EU. Các đề xuất này có thể hoặc chưa có tính ứng dụng và còn nhiều hạn chế, nhưng tôi vẫn mạnh dạn trình bày ở đây với mong muốn được góp một phần nào ý kiến để nâng cao hoạt động xuất khẩu tại Công ty. KẾT LUẬN Thủ công mỹ nghệ là một trong những ngành hàng được xếp vào 10 ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong thời gian qua. Xuất khẩu hàng TCMN không chỉ đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế Việt Nam mà nó còn góp phần gìn giữ, bảo tồn văn hoá dân tộc và giới thiệu tinh hoa văn hóa với thế giới thông qua những sản phẩm TCMN. Ngày nay, hàng TCMN của Việt Nam rất được ưa chuộng ở nhiều thị trường trên thế giới trong đó có EU, một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng đối với hàng TCMN của Việt Nam. Công ty ARTEX Thăng Long là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu hàng TCMN từ lâu trên thị trường. Trong quá trình phát triển công ty đã gặp rất nhiều khó khăn như những sự biến động lớn về kinh tế, chính trị, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới về xuất khẩu hàng TCMN…Nhưng với những kinh nghiệm đã có của mình, công ty ARTEX Thăng Long đã không ngừng vươn lên để xây dựng được uy tín và thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước. Công ty đã mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều nước trên thế giới và khu vực trong đó thị trường EU vẫn là thị trường trọng điểm của công ty. Trong thời gian tới công ty vẫn xác định cần phải mở rộng hơn nữa thị trường EU nhằm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh xuất khẩu hàng TCMN và có thể tiến một bước xa hơn nữa trong kinh doanh xuất nhập hàng TCMN. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách kinh tế thương mại – GS.TS. Đặng Đình Đào- GS.TS. Hoàng Đức Thân Giáo trình Thương mại quốc tế Tạp chí Thương Mại 2007 Thời báo kinh tế số 48, 63, 42 Các trang web: Eurocham’s official, Ba thị trường xuất khẩu TCMN, sứ mệnh và mục tiêu, thực trạng xuất khẩu hàng TCMN sang thị trường EU, mối quan hệ Việt Nam và EU… Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty xuất nhập khẩu mỹ nghệ Thăng Long. Bảng cân đối kế toán công ty. Báo cáo thường niên của công ty. Dự kiến năm 2008 của công ty ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
Căn cứ pháp lý: Luật thương mại 2005
Xuất khẩu hàng hóa là Việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ quốc gia hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ quốc gia được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 5 Điều 2 Thông tư 54/2018/TT-BGTVT về biểu khung giá dịch vụ hoa tiêu, dịch vụ sử dụng cầu, bến, phao neo, dịch vụ bốc dỡ container và dịch vụ lai dắt tại cảng biển Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành, có hiệu lực từ 01/01/2019, có quy định như sau:
Hàng hóa xuất khẩu là hàng hóa có nơi gửi hàng (gốc) ở Việt Nam và có nơi nhận hàng (đích) ở nước ngoài.
Hàng hóa nhập khẩu là hàng hóa có nơi gửi hàng (gốc) ở nước ngoài và nơi nhận hàng (đích) ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng tôi thông tin thêm đến bạn một số vấn đề liên quan sẽ giúp ích cho bạn:
- Một chuyến được tính là tàu thuyền vào khu vực hàng hải 01 lượt và rời khu vực hàng hải 01 lượt.
- Tuyến vận tải thủy từ bờ ra đảo bao gồm các tuyến vận tải thủy từ bờ ra đảo trong vùng biển Việt Nam được công bố theo quy định của pháp luật.
- Khung giá dịch vụ tại cảng biển là các mức giá liên tục từ giá tối thiểu đến giá tối đa cho dịch vụ tại cảng biển.